5. Tình tiết giảm nhẹ, Tình tiết tăng nặng xử lý vi phạm hành chính
Việc xử lý vi phạm hành chính phải căn cứ vào tính chất, hậu quả vi phạm, đối tượng vi phạm và tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng. Khi xác minh các tình tiết của vi phạm hành chính, người có thẩm quyền xử phạt vi phạm cần xác minh các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ. Đây là một trong những căn cứ quan trọng trong việc áp dụng biện phát xử phạt. Sau đây, Dữ Liệu Pháp Lý sẽ trình bày những quy định của Luật xử lý vi phạm hành chính 2012 về Tình tiết giảm nhẹ, Tình tiết tăng nặng xử lý vi phạm hành chính
1. Khái niệm
– Vi phạm hành chính là hành vi có lỗi do cá nhân, tổ chức thực hiện, vi phạm quy định của pháp luật về quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt vi phạm hành chính.
(Khoản 1 Điều 2 Luật xử lý vi phạm hành chính 2012)
2. Tình tiết giảm nhẹ
Theo Điều 9 Luật xử lý vi phạm hành chính 2012, những tình tiết sau đây là tình tiết giảm nhẹ:
– Người vi phạm hành chính đã có hành vi ngăn chặn, làm giảm bớt hậu quả của vi phạm hoặc tự nguyện khắc phục hậu quả, bồi thường thiệt hại;
– Người vi phạm hành chính đã tự nguyện khai báo, thành thật hối lỗi; tích cực giúp đỡ cơ quan chức năng phát hiện vi phạm hành chính, xử lý vi phạm hành chính;
– Vi phạm hành chính trong tình trạng bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của người khác gây ra; vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng; vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết;
– Vi phạm hành chính do bị ép buộc hoặc bị lệ thuộc về vật chất hoặc tinh thần;
– Người vi phạm hành chính là phụ nữ mang thai, người già yếu, người có bệnh hoặc khuyết tật làm hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình;
– Vi phạm hành chính vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không do mình gây ra;
– Vi phạm hành chính do trình độ lạc hậu;
– Những tình tiết giảm nhẹ khác do Chính phủ quy định.
3. Tình tiết tăng nặng
Theo khoản 1 Điều 10 Luật xử lý vi phạm hành chính 2012 những tình tiết sau đây là tình tiết tăng nặng:
– Vi phạm hành chính có tổ chức;
– Vi phạm hành chính nhiều lần; tái phạm;
– Xúi giục, lôi kéo, sử dụng người chưa thành niên vi phạm; ép buộc người bị lệ thuộc vào mình về vật chất, tinh thần thực hiện hành vi vi phạm hành chính;
– Sử dụng người biết rõ là đang bị tâm thần hoặc bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi để vi phạm hành chính;
– Lăng mạ, phỉ báng người đang thi hành công vụ; vi phạm hành chính có tính chất côn đồ;
– Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để vi phạm hành chính;
– Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, thiên tai, thảm họa, dịch bệnh hoặc những khó khăn đặc biệt khác của xã hội để vi phạm hành chính;
– Vi phạm trong thời gian đang chấp hành hình phạt của bản án hình sự hoặc đang chấp hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý vi phạm hành chính;
– Tiếp tục thực hiện hành vi vi phạm hành chính mặc dù người có thẩm quyền đã yêu cầu chấm dứt hành vi đó;
– Sau khi vi phạm đã có hành vi trốn tránh, che giấu vi phạm hành chính;
– Vi phạm hành chính có quy mô lớn, số lượng hoặc trị giá hàng hóa lớn;
– Vi phạm hành chính đối với nhiều người, trẻ em, người già, người khuyết tật, phụ nữ mang thai.
Lưu ý: Tình tiết nêu trên đã được quy định là hành vi vi phạm hành chính thì không được coi là tình tiết tăng nặng.
Kết luận: Vậy trước khi đưa ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với một hành vi vi phạm nhất định, người có thẩm quyền phải xem xét đến các tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng nêu trên theo quy định của Luật xử lý vi phạm hành chính 2012
Trình tự thủ tục, hồ sơ, biểu mẫu thực hiện xem tại đây:
Tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng xử lý vi phạm hành chính
Thủ tục | Nội dung |
---|