29. Điều kiện bảo hộ quyền đối với giống cây trồng
Việc quy định các điều kiện bảo hộ quyền đối với giống cây trồng chủ yếu nhằm tránh sự yêu cầu bảo hộ bừa bãi mà không có căn cứ của các cá nhân, tổ chức. Đặc biệt trong bối cảnh ngày nay, khi khoa học tiến bộ, số lượng các giống cây trồng mới ngày càng nhiều nhưng chất lượng và sự khác biệt so với giống cũ thì không hẳn. Nội dung cụ thể sẽ được Dữ Liệu Pháp Lý phân tích thông qua các quy định của Luật Sở hữu trí tuệ 2005.
1. Khái niệm
Giống cây trồng là quần thể cây trồng thuộc cùng một cấp phân loại thực vật thấp nhất, đồng nhất về hình thái, ổn định qua các chu kỳ nhân giống, có thể nhận biết được bằng sự biểu hiện các tính trạng do kiểu gen hoặc sự phối hợp của các kiểu gen quy định và phân biệt được với bất kỳ quần thể cây trồng nào khác bằng sự biểu hiện của ít nhất một tính trạng có khả năng di truyền được. (khoản 24 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ 2005)
Quyền đối với giống cây trồng là quyền của tổ chức, cá nhân đối với giống cây trồng mới do mình chọn tạo hoặc phát hiện và phát triển hoặc được hưởng quyền sở hữu. (khoản 5 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ 2005)
2. Điều kiện chung đối với giống cây trồng được bảo hộ
Theo Điều 158 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 quy định thì giống cây trồng được bảo hộ là giống cây trồng được chọn tạo hoặc phát hiện và phát triển, thuộc Danh mục loài cây trồng được Nhà nước bảo hộ do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ban hành, có tính mới, tính khác biệt, tính đồng nhất, tính ổn định và có tên phù hợp.
3. Quy định về các tính chất cụ thể của giống cây trồng được bảo hộ
Tính mới của giống cây trồng
Quy định tại Điều 159 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 về tính mới của giống câu trồng như sau:
Giống cây trồng được coi là có tính mới nếu vật liệu nhân giống hoặc sản phẩm thu hoạch của giống cây trồng đó chưa được người có quyền đăng ký quy định tại Điều 164 của Luật này hoặc người được phép của người đó bán hoặc phân phối bằng cách khác nhằm mục đích khai thác giống cây trồng trên lãnh thổ Việt Nam trước ngày nộp đơn đăng ký một năm hoặc ngoài lãnh thổ Việt Nam trước ngày nộp đơn đăng ký sáu năm đối với giống cây trồng thuộc loài thân gỗ và cây nho, bốn năm đối với giống cây trồng khác.
Tính khác biệt của giống cây trồng
Quy định tại Điều 160 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 về tính khác biệt của giống cây trồng như sau:
– Giống cây trồng được coi là có tính khác biệt nếu có khả năng phân biệt rõ ràng với các giống cây trồng khác được biết đến rộng rãi tại thời điểm nộp đơn hoặc ngày ưu tiên nếu đơn được hưởng quyền ưu tiên.
– Giống cây trồng được biết đến rộng rãi quy định tại khoản 1 Điều này là giống cây trồng thuộc một trong các trường hợp sau đây:
+ Giống cây trồng mà vật liệu nhân giống hoặc vật liệu thu hoạch của giống đó được sử dụng một cách rộng rãi trên thị trường ở bất kỳ quốc gia nào tại thời điểm nộp đơn đăng ký bảo hộ;
+ Giống cây trồng đã được bảo hộ hoặc đưa vào Danh mục giống cây trồng ở bất kỳ quốc gia nào;
+ Giống cây trồng là đối tượng trong đơn đăng ký bảo hộ hoặc đơn đăng ký vào Danh mục giống cây trồng ở bất kỳ quốc gia nào, nếu các đơn này không bị từ chối.
Tính đồng nhất của giống cây trồng
Quy định tại Điều 161 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 như sau:
Giống cây trồng được coi là có tính đồng nhất nếu có sự biểu hiện như nhau về các tính trạng liên quan, trừ những sai lệch trong phạm vi cho phép đối với một số tính trạng cụ thể trong quá trình nhân giống.
Tính ổn định của giống cây trồng
Quy định tại Điều 162 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 về tính ổn định của giống cây trồng như sau:
Giống cây trồng được coi là có tính ổn định nếu các tính trạng liên quan của giống cây trồng đó vẫn giữ được các biểu hiện như mô tả ban đầu, không bị thay đổi sau mỗi vụ nhân giống hoặc sau mỗi chu kỳ nhân giống trong trường hợp nhân giống theo chu kỳ.
Tên của giống cây trồng
Quy định tại Điều 163 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 như sau:
– Người đăng ký phải đề xuất một tên phù hợp cho giống cây trồng với cơ quan quản lý nhà nước về quyền đối với giống cây trồng, tên đó phải trùng với tên đã đăng ký bảo hộ ở bất kỳ quốc gia nào có ký kết với Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thỏa thuận về bảo hộ giống cây trồng.
– Tên của giống cây trồng được coi là phù hợp nếu tên đó có khả năng dễ dàng phân biệt được với tên của các giống cây trồng khác được biết đến rộng rãi trong cùng một loài hoặc loài tương tự.
– Tên của giống cây trồng không được coi là phù hợp trong các trường hợp sau đây:
+ Chỉ bao gồm các chữ số, trừ trường hợp chữ số liên quan đến đặc tính hoặc sự hình thành giống đó;
+ Vi phạm đạo đức xã hội;
+ Dễ gây hiểu nhầm về các đặc trưng, đặc tính của giống đó;
+ Dễ gây hiểu nhầm về danh tính của tác giả;
+ Trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý đã được bảo hộ trước ngày công bố đơn đăng ký bảo hộ giống cây trồng;
+ Ảnh hưởng đến quyền đã có trước của tổ chức, cá nhân khác.
– Tổ chức, cá nhân chào bán hoặc đưa ra thị trường vật liệu nhân giống của giống cây trồng phải sử dụng tên giống cây trồng như tên đã ghi trong bằng bảo hộ, kể cả sau khi kết thúc thời hạn bảo hộ.
– Khi tên giống cây trồng được kết hợp với nhãn hiệu hàng hóa, tên thương mại hoặc các chỉ dẫn tương tự với tên giống cây trồng đã được đăng ký để chào bán hoặc đưa ra thị trường thì tên đó vẫn phải có khả năng nhận biết một cách dễ dàng.
Kết luận: Như vậy, qua các điều luật nói trên của Luật Sở hữu trí tuệ 2005 về các điều kiện bảo hộ đối với giống cây trồng đã được quy định cách cụ thể và đầy đủ. Hy vọng với bài viết này, Dữ Liệu Pháp Lý đã đem đến cho bạn đọc những thông tin cơ bản và cần thiết xoay quanh vấn đề về điều kiện bảo hộ quyền đối với giống cây trồng.
Trình tự thủ tục, hồ sơ, biểu mẫu thực hiện xem tại đây:
Điều kiện bảo hộ quyền đối với giống cây trồng
Thủ tục | Nội dung |
---|