TIÊU CHUẨN QUỐC GIA TCVN 2625:2007 (ISO 5555:2001) VỀ DẦU MỠ ĐỘNG VẬT VÀ THỰC VẬT – LẤY MẪU

Hiệu lực: Còn hiệu lực

TIÊU CHUẨN QUỐC GIA

TCVN 2625:2007

ISO 5555:2001

DẦU MỠ ĐỘNG VẬT VÀ THỰC VẬT – LẤY MẪU

Animal and vegetable fats and oils – Sampling

Lời nói đầu

TCVN 2625:2007 thay thế TCVN 2625:1999;

TCVN 2625:2007 hoàn toàn tương đương với ISO 5555:2001;

TCVN 2625:2007 do Ban kỹ thuật tiêu chuẩn TCVN/TC/F2 Dầu mỡ động vật và thực vật biên soạn, Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng đề nghị, Bộ Khoa học và Công nghệ công bố.

 

DẦU MỠ ĐỘNG VẬT VÀ THỰC VẬT – LẤY MẪU

Animal and vegetable fats and oils – Sampling

1. Phạm vi áp dụng

Tiêu chuẩn này mô tả phương pháp lấy mẫu dầu mỡ động vật và thực vật thô hoặc đã chế biến (dưới đây gọi là chất béo) hoặc mỡ nguyên chất ở dạng lỏng hoặc dạng rắn. Tiêu chuẩn này cũng mô tả các dụng cụ được sử dụng trong quá trình lấy mẫu.

CHÚ THÍCH: Phương pháp lấy mẫu sữa và các sản phẩm sữa, bao gồm chất béo của sữa được qui định trong TCVN 6400 (ISO 707).

2. Thuật ngữ và định nghĩa

Trong tiêu chuẩn này áp dụng các thuật ngữ và định nghĩa sau:

2.1. Chuyến hàng (consignment)

Lượng chất béo được giao tại một thời điểm và theo một hợp đồng cụ thể hay một vận đơn.

CHÚ THÍCH: Chuyến hàng có thể gồm một hoặc nhiều lô hàng hay một phần của một lô hàng.

2.2. Lô hàng (lot)

Lượng chất béo giống nhau, có cùng các đặc tính giống nhau.

2.3. Mẫu ban đầu (increment)

Lượng chất béo lấy được tại một thời điểm từ một vị trí trong lô hàng.

2.4. Mẫu chung (bulk sample)

Lượng chất béo nhận được bằng cách kết hợp các mẫu ban đầu của lô hàng theo tỷ lệ với số lượng đại diện cho lô hàng đó.

CHÚ THÍCH: Mẫu chung đại diện cho lô hàng có tính đến các yêu cầu của hợp đồng.

2.5. Mẫu thử nghiệm (laboratory sample)

Lượng mẫu lấy từ mẫu chung sau khi làm đồng nhất và rút gọn, là đại diện cho lô hàng và để kiểm tra ở phòng thử nghiệm.

2.6. Khối lượng qui ước theo thể tích mẫu (conventional mass per volume sample)

“khối lượng 1 lít mẫu trong không khí” (litre weight in air) sample

Khối lượng chất béo được lấy tính theo thể tích.

3. Nguyên tắc chung

Mục đích của việc lấy mẫu và chuẩn bị mẫu, lấy từ một chuyến hàng (có thể trong cùng một số lô), một lượng chất béo qui định, có các tính chất gần giống với tính chất của chuyến hàng được lấy mẫu.

Các phương pháp lấy mẫu được mô tả dưới đây nhằm hướng dẫn các chuyên gia cách thao tác và có thể sử dụng cho:

a) Chuyến hàng có số lượng lớn, ví dụ như ở thùng chứa trên đất liền, thùng chứa trên tàu thủy, thùng chứa trên tàu hỏa và thùng chứa trên ô tô, và

b) Chuyến hàng gồm có nhiều kiện hàng, ví dụ như thùng, hòm, hộp, túi và chai.

4. Yêu cầu đối với thiết bị, dụng cụ

4.1. Khái quát

Tùy mục đích cụ thể, việc lựa chọn các dụng cụ lấy mẫu và tính phù hợp của nó tùy thuộc vào kỹ năng của người lấy mẫu theo quy trình được khuyến nghị.

Trong tất cả các trường hợp, điều cần phải chú ý là mẫu dùng để kiểm tra sơ bộ, để phân tích hay để xác định khối lượng qui ước theo thể tích (“khối lượng của 1 lít mẫu trong không khí”).

4.2. Vật liệu

Các dụng cụ lấy mẫu, các thiết bị phụ trợ và các vật chứa mẫu phải được làm từ vật liệu có tính trơ hóa học đối với chất béo được lấy mẫu và không gây ra xúc tác phản ứng hóa học.

Đối với các dụng cụ lấy mẫu, thép không gỉ là vật liệu thích hợp nhất. Nhôm chỉ có thể được sử dụng khi chất béo có độ axit thấp nhưng không dùng để bảo quản mẫu.

Chỉ sử dụng chất dẻo thỏa mãn yêu cầu nêu trên, ở các điều kiện nhiệt độ thao tác; polyetylen terephtalat (PET) đáp ứng được yêu cầu về việc tiếp xúc với thực phẩm có thể được sử dụng.

Không dùng đồng và các hợp kim đồng cũng như một số vật liệu có tính độc.

CẢNH BÁO – Nếu dụng cụ thủy tinh được sử dụng với lý do đặc biệt, thì phải hết sức cẩn thận để tránh nứt vỡ. Không được đưa dụng cụ thủy tinh vào trong thùng chứa chất béo.

4.3. Ví dụ một số kiểu dụng cụ lấy mẫu

4.3.1. Khái quát

Hiện có các loại dụng cụ lấy mẫu với nhiều hình dạng khác nhau được sử dụng, các loại được mô tả trong tiêu chuẩn này chỉ là các ví dụ thông thường.

Các dụng cụ này rất đơn giản, tiện lợi và dễ làm sạch. Chúng có thể được sử dụng cho tất cả các thao tác lấy mẫu đã mô tả trong tiêu chuẩn này với tất cả các loại chất béo thông thường trên thị trường.

Các yêu cầu cơ bản thường qui định đối với các dụng cụ lấy mẫu, ví dụ như phải có khả năng lấy được mẫu đại diện từ một mức hay một phạm vi qui định và duy trì tình trạng nguyên vẹn của mẫu thử cho đến khi mẫu được chuyển vào dụng cụ chứa mẫu. Các đặc tính cơ bản khác là tính dễ làm sạch, kích cỡ thực tế và khả năng chịu đựng được các cách sử dụng.

Có thể sử dụng các mẫu mã khác với mô tả trong tiêu chuẩn này, ví dụ: các dụng cụ để thỏa mãn nhu cầu của người sử dụng.

Các dụng cụ có thể có các kích cỡ khác nhau để phù hợp với lượng mẫu yêu cầu và tính chất của chất béo.

4.3.2. Dụng cụ lấy mẫu

Sử dụng các dụng cụ dưới đây

a) Bình lấy mẫu đơn giản đã xác định khối lượng, xem B.1 và hình B.1.

b) Khung đã xác định khối lượng để đựng chai lấy mẫu, xem B.2 và hình B.2.

c) Xyranh lấy mẫu có van (dụng cụ lấy mẫu dưới sâu), xem B.3 và hình B.3.

d) Dụng cụ lấy mẫu dưới đáy, xem B.4 và hình B.4.

e) Ống lấy mẫu, xem B.5 và hình B.5.

f) Muôi lấy mẫu, xem B.6 và hình B.6.

4.4. Các thiết bị phụ trợ

Các thiết bị phụ trợ cũng được qui định dưới đây

a) Thước đo nước, xem B.7 và hình B.7.

b) Thước đo độ vơi, xem B.8 và hình B.8.

c) Nhãn mác, keo dán hoặc dây buộc và dụng cụ niêm phong, xem điều 7.

d) Nhiệt kế, xem B.9.

e) Thước dây và cân, xem B.10.

4.5. Phương tiện đựng mẫu

Phương tiện đựng mẫu làm từ vật liệu qui định trong 4.2.

5. Kỹ thuật lấy mẫu

5.1. Tất cả các thao tác lấy mẫu phải do một người thực hiện và tay của người lấy mẫu phải sạch hoặc phải đeo găng tay (có thể dùng găng tay bằng chất dẻo hoặc bằng cattông sạch).

5.2. Các dụng cụ lấy mẫu và chứa mẫu phải sạch và được làm khô trước khi sử dụng.

5.3. Việc lấy mẫu phải tiến hành sao cho bảo vệ được mẫu, chất béo được lấy mẫu và các dụng cụ lấy mẫu tránh được các chất nhiễm bẩn ngẫu nhiên bởi mưa và bụi, v.v…

5.4. Tất cả các dụng cụ phải được làm sạch bên ngoài để loại bỏ các vật lạ trước khi lấy mẫu.

5.5. Nếu cần phải đun nóng chất béo để thuận tiện cho việc lấy mẫu, thì điều quan trọng là không được đun quá nóng. Nhiệt độ của chất béo trong thùng chứa khi bảo quản không nên tăng quá 50C trong một ngày.

Bề mặt của các cuộn dây đun nóng cần rộng tương ứng với thể tích của chất béo, nhiệt độ của các cuộn dây phải giữ càng thấp càng tốt để tránh quá nóng cục bộ. Nên dùng hơi nước nóng ở áp suất cao nhất là 150 kPa (1,5 bar), nhiệt độ 1280C, hoặc nước nóng (chỉ dùng khi cuộn dây đun nóng tự khô). Cần thận trọng để tránh nhiễm bẩn chất béo do hơi nước hoặc nước.

Nhiệt độ của chất béo trong khi lấy mẫu nên lấy trong dãy nhiệt độ ở phụ lục A.

5.6. Sau khi các mẫu được lấy theo qui định trong 6.1 đến 6.8, mẫu phòng thử nghiệm phải được chuẩn bị theo qui định trong 6.9.

6. Phương pháp lấy mẫu

6.1. Khái quát

6.1.1. Các dụng cụ chứa để vận chuyển và bảo quản chất béo.

Cần phân biệt các dụng cụ chứa chất béo sau đây có thể ảnh hưởng đến phương pháp sử dụng để lấy mẫu:

a) Bể chứa có dạng hình trụ thẳng đứng để chứa trên mặt đất (xem 6.2);

b) Bể chứa trên tàu thủy (xem 6.3);

c) Bể chứa trên tàu hỏa hoặc trên ô tô (xem 6.4);

d) Bể chứa có dạng hình trụ nằm ngang (xem 6.4);

e) Bể chứa có dung tích lớn (xem 6.5);

f) Ống dẫn (xem 6.6);

g) Các loại bao bì khác, ví dụ như thùng, hòm, hộp, túi và chai (xem 6.8).

Cách tiến hành lấy mẫu để xác định khối lượng qui ước theo thể tích (* khối lượng của 1 lít mẫu trong không khí *) (xem 6.7).

6.1.2. Nước

Nước có mặt ở dưới đáy có thể chỉ là nước (có nghĩa là nước bị tách), là lớp nhũ tương, hoặc là nước lẫn trong huyền phù trong chất béo tại một số vật chứa được mô tả trong 6.1.1. Tuy nhiên, trong suốt quá trình thao tác thông thường, một lượng chất béo ngẫu nhiên không mong muốn sót lại trong các bể chứa lớn và trong ống dẫn trong một thời gian đủ để cho nước lắng xuống phía dưới đáy.

Các phương pháp đo nước này phần lớn chỉ thực hiện được ở bể chứa thẳng đứng (xem 6.2), nhưng các nguyên tắc này cũng áp dụng cho các phương tiện chứa đã được liệt kê trừ ống dẫn.

Sự tồn tại của nước có thể được phát hiện bằng dụng cụ lấy mẫu ở đáy (B.4), và nước tự do được đo bằng thước đo nước (B.7), bằng bột hoặc giấy phát hiện nước, hay bằng các phương tiện đo điện tử khác.

Với các phương pháp đã được sử dụng, để có một phương pháp xác định chính xác hàm lượng nước là rất khó, bởi vì các lớp nhũ tương, nước tự do và nước ngưng tụ ở lớp dưới của chất béo tách ra khó phân biệt.

Có thể dùng để xác định được một trong hai loại nước là nước ngọt hoặc nước biển.

6.2. Lấy mẫu ở bể chứa có dạng hình trụ thẳng đứng trên mặt đất

6.2.1. Các công việc chuẩn bị

6.2.1.1. Cặn, nhũ tương và nước tự do

Xác định có hay không có cặn, lớp nhũ tương hoặc nước tự do tại đáy bể chứa bằng dụng cụ lấy mẫu ở đáy và/hoặc các dụng cụ phát hiện nước như mô tả trong 6.1.2.

Việc sử dụng nhiệt làm cho nước ngưng tụ và lắng xuống (xem 5.5).

Nếu có thể được, tùy theo từng hợp đồng và thỏa thuận của các bên, nên tách lượng nước tự do và đo lượng nước đã được giải phóng trước khi lấy mẫu.

6.2.1.2. Làm đồng nhất

Trước khi bắt đầu lấy mẫu, điều cần thiết là tất cả sản phẩm phải đồng nhất, nếu có thể thì càng lỏng càng tốt.

Kiểm tra sự đồng nhất của chất béo ở bể chứa bằng cách dùng bình lấy mẫu đơn giản đã biết khối lượng (B.1), khung đã biết khối lượng để giữ chai lấy mẫu (B.2) hoặc xyranh lấy mẫu có van (B.3) và ở đáy thì dùng dụng cụ lấy mẫu ở đáy (B.4), kiểm tra các mẫu ban đầu lấy ở các mức khác nhau.

Nếu có các lớp thành phần khác nhau, có thể làm cho chúng đồng nhất bằng cách đun nóng như mô tả trong 5.5.

Nếu việc đun nóng không được chấp nhận do tính chất của chất béo hoặc nếu thấy không cần thiết hay được bỏ qua do một lý do nào khác, thì chất béo có thể được làm đồng nhất bằng cách thổi khí nitơ đi qua chất béo.

Nếu biết chất béo không đồng nhất và không có khí nitơ thì các bên hữu quan có thể thỏa thuận thổi không khí khô xuyên qua sản phẩm, mặc dù qui trình này đặc biệt bị phản đối trong trường hợp của dầu cá, bởi vì điều đó là nguyên nhân dẫn đến sự oxy hóa của chất béo. Các chi tiết của thao tác đó cần được ghi lại trong biên bản lấy mẫu gửi về phòng thử nghiệm.

6.2.2. Cách tiến hành

6.2.2.1. Khái quát

Mẫu ở mỗi bể chứa phải lấy riêng rẽ.

6.2.2.2. Chất béo không đồng nhất

Nếu lượng chất béo trong bể chứa không đồng nhất và không thể làm cho đồng nhất được thì sử dụng bình đựng mẫu đơn giản (B.1), khung đã biết khối lượng để giữ chai lấy mẫu (B.2) hoặc xyranh lấy mẫu có van (B.3) và kèm theo dụng cụ lấy mẫu ở đáy (B.4) để lấy mẫu.

Lấy mẫu từ bề mặt cho tới đáy và cứ mỗi 300 mm lấy một lượng mẫu, cho đến khi đến lớp có thành phần khác nhau. Tại lớp này, lấy lượng mẫu tăng lên (cứ mỗi độ sâu 100 mm lấy một mẫu). Sau đó lấy mẫu ở đáy.

Trộn các mẫu ban đầu đó với nhau để lấy ra:

a) một mẫu của dầu trong, và

b) một mẫu tách lớp.

Chuẩn bị một mẫu chung bằng cách trộn các mẫu a) và b) theo tỷ lệ kích cỡ tương ứng của hai lớp, tiến hành cẩn thận để đảm bảo tỉ lệ càng chính xác càng tốt.

Chuẩn bị các mẫu chung theo bảng 1, mỗi một bể chứa, chuẩn bị ít nhất một mẫu chung.

Bảng 1 – Số lượng mẫu chung lấy tại bể chứa trên tàu biển hoặc bể chứa trên mặt đất

Khối lượng chất béo trong bể chứa

Tấn

Số lượng mẫu chung cho mỗi bể chứa

≤ 500

1

từ > 500 đến ≤ 1000

2

> 1000

1 mẫu cho 500 tấn hoặc cho một phần

6.2.2.3. Chất béo đồng nhất

Nếu lượng chất béo trong bể chứa đồng nhất, sử dụng một trong những dụng cụ lấy mẫu như ở 6.2.2.2, nhưng trong trường hợp này lấy ít nhất ba mẫu ban đầu, “trên”, “giữa” và “đáy”.

Mẫu ban đầu “trên” được lấy tại điểm 1/10 tổng độ sâu tính từ bề mặt, mẫu ban đầu “giữa” được lấy tại điểm 1/2 của tổng độ sâu và mẫu ban đầu “đáy” lấy tại điểm 9/10 của tổng độ sâu.

Chuẩn bị mẫu chung bằng cách trộn theo tỷ lệ một phần của mẫu trên, một phần của mẫu đáy với ba phần của mẫu giữa.

Chuẩn bị lượng mẫu chung theo bảng 1, mỗi một bể chứa, chuẩn bị ít nhất một mẫu chung.

6.3. Lấy mẫu tại các bể chứa trên tàu thủy

Kiểu dáng và cách bố trí các bể chứa trên tàu thủy làm cho việc lấy mẫu có khó khăn hơn ở các bể chứa dạng hình trụ thẳng đứng ở trên đất liền. Thông thường thì việc tiến hành lấy mẫu được thực hiện trong suốt quá trình vận chuyển như đã mô tả trong 6.6. Nếu mẫu được lấy từ bể chứa trên tàu (càng sớm càng tốt), quá trình thao tác được mô tả trong 6.2, bao gồm các thao tác ban đầu cũng như việc đun nóng.

Mẫu của mỗi bể chứa phải để riêng rẽ. Chuẩn bị số lượng mẫu chung theo qui định trong bảng 1. Trong khi chuẩn bị mẫu chung từ các mẫu ban đầu lấy tại từng bể chứa, nếu được, nên lưu ý đến kiểu dáng của bể chứa, để lúc trộn mẫu có được tỷ lệ phù hợp.

Sau khi các bể chứa trên xà lan (hoặc tàu thủy) được đổ đầy chất béo, tiến hành lấy mẫu càng sớm càng tốt.

6.4. Lấy mẫu tại các bể chứa trên tàu hỏa, bể chứa trên ô tô và tại các bể chứa có dạng hình trụ nằm ngang

Sau khi các bể chứa được đổ đầy chất béo, tiến hành lấy mẫu càng sớm càng tốt, nghĩa là trước khi xảy ra lắng đọng có khả năng dẫn đến sự tách lớp hoặc phân lớp.

Lấy các mẫu ban đầu bằng cách sử dụng bình lấy mẫu đơn giản (B.1), khung đã biết khối lượng để giữ chai lấy mẫu (B.2) và xyranh lấy mẫu có van (B.3), theo qui trình như mô tả trong 6.2.2.

Nếu các mẫu ban đầu không thể lấy ngay sau khi các bể chứa đã được đổ đầy thì tiến hành xác định sơ bộ sự hiện diện của nước tự do tại lớp ở đáy. Nếu có nước tự do, theo thỏa thuận của các bên hữu quan thì loại bỏ bằng cách mở nút ở đáy rồi rút nước ra. Đo lượng nước được rút ra, thông báo việc đó cho khách hàng, người bán hàng hay người đại diện.

Sau đó làm cho lượng chất béo đủ đồng nhất bằng cách thổi khí nitơ 1) xuyên qua và/hoặc bằng cách đun nóng cho đến khi hóa lỏng hoàn toàn, đối với chất béo đặc biệt, không cho phép xử lý như thế.

Nếu có yêu cầu cụ thể phải là chất lỏng tĩnh để lấy mẫu trong các bể chứa trên tàu hỏa hay trong bể chứa có dạng hình trụ nằm ngang, thì không cần trộn như đã trình bày ở trên, cần phải đặc biệt thận trọng khi điều chỉnh tỷ lệ mẫu với độ sâu của chất lỏng.

Nếu dùng xyranh có van để lấy mẫu ở các độ sâu cách nhau 300 mm của bể chứa trên tàu hỏa, thì nên tham khảo hình 1 để xác định tỷ lệ các mẫu ban đầu tại mỗi độ sâu cách nhau 300 mm, tất cả đem trộn với nhau để tạo thành mẫu chung. Phương pháp đơn giản này (vẽ để chia độ trên giấy biểu đồ hình dạng hoặc kích thước các mặt cắt ngang của bể chứa) có thể được sử dụng, để đưa ra tỷ lệ trộn các mẫu ban đầu với nhau.

Đối với các bể chứa nằm nghiêng lấy mẫu theo phương pháp đã mô tả trong 6.3 cho bể chứa trên tàu thủy. Việc thay đổi kiểu cách của bể chứa như đã mô tả ở trên không áp dụng cho loại bể chứa nằm nghiêng hoặc bể chứa không theo một qui cách nào cả.

Chuẩn bị mẫu chung từ các mẫu ban đầu tỷ lệ với mặt cắt ngang của bể chứa.

a) Mặt cắt ngang hình êlíp của bể chứa nằm ngang

b) Mặt cắt ngang hình trụ của bể chứa nằm ngang

Hình 1 – Mặt cắt ngang của các bể chứa điển hình.

6.5. Lấy mẫu tại các bể chứa có dung tích lớn

Lấy mẫu tại các bể chứa có dung tích lớn, nên tiến hành ngay sau khi bể được đổ đầy chất béo, trước khi để lắng.

Lấy mẫu bằng cách đưa dụng cụ lấy mẫu ngập sâu vào giữa bể và lấy đầy. Nếu quá trình lấy mẫu bị trì hoãn, có thể dẫn đến bị lắng cặn ở đáy thùng chứa, do đó nên khuấy chất béo trong bể trước khi lấy mẫu hoặc tiến hành lấy mẫu tại các độ sâu cách nhau 300 mm.

Nếu bể chứa được đóng kín, thì mẫu được lấy từ vòi chảy theo hướng nằm ngang (như mô tả ở 6.6.2) ngay sau khi được đổ đầy.

Chuẩn bị mẫu chung từ các mẫu ban đầu theo tỷ lệ với mặt cắt ngang của bể chứa.

6.6. Lấy mẫu tại ống dẫn trong quá trình vận chuyển

6.6.1. Khái quát

Phương pháp này chỉ sử dụng khi chất béo đã được hóa lỏng hoàn toàn và không chứa các thành phần có thể đóng thành khối, vón cục ở vòi hay ở van chảy. Bất kỳ một chất nhũ tương nào chứa nước (ví dụ dầu ở đầu bơm) cũng phải rút ra hết, bảo quản, tiến hành lấy mẫu và cân riêng rẽ từng mẫu một.

Các mẫu tại nơi có khối lượng lớn có thể lấy trong quá trình chuyển chất béo bằng cách lấy mẫu liên tục ở dòng chảy trong các khoảng thời gian cách đều nhau khi chất béo trong bể chứa được rót ra. Phương pháp này đặc biệt rất dễ áp dụng nếu chất béo được chuyển từ bể chứa có gắn thiết bị đo của bể lớn.

Cách khác, có thể tiến hành lấy mẫu từ một phía hoặc cách thứ hai là lấy từ dòng chảy của ống dẫn chính, nhưng khó đảm bảo lấy mẫu chính xác theo phương pháp này.

6.6.2. Vòi dẫn hoặc van chảy

Vòi dẫn hoặc van chảy có thể được dẫn từ một vòi có đường kính không nhỏ hơn 9,5 mm, có thể luồn được vào giữa hoặc tại 1/3 đường kính của ống dẫn chính và quay vòi chảy của chất lỏng, không chấp nhận vòi dẫn đặt bên cạnh hay ở đáy ống dẫn. Nếu có thể được, vòi dẫn hoặc van chảy phải đưa vào mặt cắt ngang của ống dẫn chính, càng xa chỗ lượn khúc và chỗ nối chữ T càng tốt, tốt nhất là trong khoảng từ 10 m đến 50 m về phía bơm áp lực. Không nên dùng vòi xả đường ống lấy mẫu, ống lấy mẫu phải có đường kính không nhỏ hơn 9,5 mm và có thể rót ra được liên tục. Vòi dẫn hoặc van chảy được thiết kế sao cho dễ lau chùi và làm sạch nhanh chóng trong trường hợp bị tắc nghẽn.

Cho phép làm sạch ống dẫn khi bị tắc, do bị đóng cục trong dòng chảy chính, bằng cách khoan một lỗ nhỏ.

Việc đun nóng và cách ly chỉ áp dụng cho chất béo có độ nhớt hoặc điểm nóng chảy cao.

6.6.3. Cách tiến hành

Điều chỉnh tốc độ của dòng chảy ở ống dẫn chính đảm bảo đủ sức đảo trộn để trộn đều hoàn toàn sản phẩm trong ống dẫn. Giữ yên tốc độ dòng chảy càng đều càng tốt.

Đậy nắp phủ lên toàn bộ dụng cụ lấy mẫu và phương tiện đựng mẫu để ngăn ngừa nhiễm các tạp chất bên ngoài.

Các mẫu được lấy ở vòi chảy được đem trộn ngay và trộn cẩn thận, sau khi trộn xong lấy một mẫu chung, mẫu thử nghiệm được lấy từ mẫu chung này.

Trong quá trình thao tác lấy mẫu, khả năng tắc nghẽn có thể xảy ra do ngưng đọng và những biến đổi không thể tránh khỏi ở dòng chảy, do vậy người lấy mẫu có kinh nghiệm phải luôn có mặt lúc lấy mẫu.

6.6.4. Số lượng mẫu chung tối thiểu

Chuẩn bị mẫu chung trong khi chuyển mẫu từ mỗi bể chứa có kích cỡ tối thiểu được qui định trong bảng 2.

Bảng 2 – Cỡ mẫu chung tối thiểu khi lấy mẫu từ ống dẫn

Khối lượng của chất béo trong bể chứa

(tấn)

Cỡ mẫu chung tối thiểu

(lít)

≤ 20

1

từ > 20 đến ≤ 50

5

từ > 50 đến ≤ 500

 10

6.7. Lấy mẫu tại các bể chứa để xác định khối lượng qui ước theo thể tích (“khối lượng của 1 lít mẫu trong không khí”)

6.7.1. Khái quát

Khối lượng của chất béo trong bể chứa được tính theo thể tích của sản phẩm và qui ước theo thể tích (“khối lượng của 1 lít mẫu trong không khí”) của lượng chất béo trong bể chứa.

Lấy một mẫu đặc biệt để xác định khối lượng qui ước theo thể tích (“khối lượng của 1 lít mẫu trong không khí”) như mô tả ở 6.7.2 và 6.7.3.

6.7.2. Xử lý sơ bộ chất béo không ở thể hóa lỏng hoàn toàn

Đối với chất béo không hóa lỏng được hoàn toàn hoặc chỉ hóa lỏng được một phần, trước khi đo và lấy mẫu, đun nóng từ từ sao cho lượng chất béo trong bể chứa nóng đều và tránh đun quá nóng cục bộ (xem 5.5).

Đun liên tục cho đến khi chất béo chảy hoàn toàn. Tuy nhiên, tránh đun ở nhiệt độ quá cao, để khỏi ảnh hưởng đến chất lượng của chất béo. Đối với các loại chất béo được nêu ở phụ lục A, nhiệt độ ở tại thời điểm đo và lấy mẫu cần phải giữ ở giới hạn đã qui định, trừ khi có cách khác được thỏa thuận giữa các bên có liên quan.

Sau khi đun nóng, để bể đứng yên cho đến khi hoàn toàn không có hoặc có rất ít bọt nổi lên trên bề mặt.

Các qui định này phải được thực hiện khi tiến hành lấy mẫu.

6.7.3. Cách tiến hành

Lấy các mẫu ban đầu tại ba vị trí, “trên”, “giữa” và “đáy” (xem 6.2.2.3), nhưng không ít hơn 100 mm tính từ đáy. Rót các mẫu đó vào trong xô đựng mẫu theo tỷ lệ một phần mẫu “trên”, ba phần mẫu “giữa” và một phần mẫu “đáy”, trộn đều để tạo thành mẫu chung.

Nếu chất béo trong thùng có nhiều cặn thì mẫu được lấy tại các độ sâu cách nhau 300 mm theo qui định trong 6.2.2.

Đo nhiệt độ tại ba điểm của các độ sâu. Lấy giá trị trung bình của các giá trị đo được làm nhiệt độ của lượng chất béo trong bể chứa trong suốt quá trình lấy mẫu và đo thể tích.

6.8. Lấy mẫu ở các bao bì khác (đơn vị bao bì nhỏ) bao gồm cả các túi để bán lẻ

6.8.1. Khái quát

Nếu chuyến hàng có số lượng lớn gồm nhiều đơn vị riêng lẻ, ví dụ thùng, hòm, hộp, thùng sắt tây (để riêng lẻ hoặc để trong thùng cattông), chai hoặc túi thì việc lấy mẫu trong mỗi loại riêng biệt như trên có nhiều khó khăn, nhưng không phải là không làm được.

Trong các trường hợp như vậy, nếu có thể được, cần phải chọn hoàn toàn ngẫu nhiên một số lượng phù hợp ở trong chuyến hàng đó, đồng thời số lượng này đại diện cho số hàng đó.

Không thể đưa ra một qui tắc cứng nhắc và nhanh về số đơn vị được lấy mẫu, vì nó phụ thuộc vào phạm vi rộng về sự đồng nhất của chuyến hàng. Vì vậy trước hết các bên hữu quan cần thỏa thuận với nhau về số lượng đơn vị cần được lấy mẫu.

Nên tiến hành lấy mẫu đại diện theo thỏa thuận của các bên hữu quan, đặc biệt là đối với chất béo đã chế biến và chất béo được bao gói để bán lẻ. Xem các phương pháp được mô tả trong tiêu chuẩn ISO 2859 (tất cả các phần) và ISO 3951.

Nếu không thỏa thuận trước, thì phải phân biệt giữa các loại sau đây:

a) chuyến hàng có thể được coi là khá đồng dạng;

b) chuyến hàng được biết là không đồng dạng;

c) chuyến hàng chưa biết gì về nó;

d) chuyến hàng có chất lượng nghi ngờ do có các vật lạ trong một hoặc trong nhiều đơn vị bao gói.

Cách xử lý với từng trường hợp như sau:

Đối với a): coi chuyến hàng này là một lô hàng;

Đối với b): kiểm tra bằng mắt các bao gói. Xem xét các bao gói đó có nhãn giống nhau và được coi là một lô, ghi số lượng các bao gói đó và khối lượng chất béo có trong mỗi lô. Nếu có yêu cầu cần có một mẫu chung cho tất cả các lô hàng, thì trộn các mẫu ban đầu được lấy ở từng lô theo tỷ lệ như lấy mẫu tại các lô riêng biệt;

Đối với c): tiến hành kiểm tra sơ bộ và phân loại như ở a) hoặc b).

Đối với d): tiến hành kiểm tra riêng biệt các bao gói có nghi ngờ và xử lý riêng.

Nếu lô hàng được công nhận là đồng nhất thì các bao gói được lấy mẫu ngẫu nhiên như ở khuyến nghị và số lượng bao gói được chọn để lấy mẫu theo bảng 3.

6.8.2. Chuyến hàng gồm các thùng chứa nhỏ, hòm, hộp và các bao gói nhỏ khác

6.8.2.1. Cách tiến hành đối với những bao gói chứa chất béo rắn hay chất béo bán lỏng

Nếu trong bao gói có nước, tạo ra một lỗ hổng từ trên xuống dưới đáy thùng chứa và dồn nước vào đó theo cách phù hợp.

Đối với loại chất béo rắn đựng trong thùng, luồn muôi lấy mẫu (B.6) qua miệng thùng, thăm dò ở toàn bộ độ sâu của chất béo theo càng nhiều hướng càng tốt. Rút muôi ra theo chiều chuyển động xoắn, đổ mẫu ra bình đựng chất béo hình trụ. Trộn các mẫu được lấy từ các thùng với nhau trong một cái xô và chuyển mẫu đã trộn vào phương tiện đựng mẫu.

Lấy mẫu chất béo mềm hoặc nửa lỏng trong thùng bằng cách tương tự, dùng muôi lấy mẫu (B.6). Luồn muôi vào trong sản phẩm và múc mẫu ra. Chuẩn bị trộn mẫu bằng cách như đã mô tả ở trên.

6.8.2.2. Cách tiến hành đối với các bao gói chứa chất béo lỏng

Lăn và lật các thùng, hộp chứa chất béo lỏng và khuấy chất béo thật kỹ bằng tay, bằng máy có cánh khuấy hoặc que hình mái chèo. Lấy mẫu ban đầu ở từng bao gói đã được chỉ định bằng cách luồn dụng cụ lấy mẫu thích hợp (xem B.5 và B.6) xuyên suốt từ nắp hoặc chỗ mở thích hợp của thùng. Làm cách nào để lấy mẫu ở càng nhiều phần của sản phẩm càng tốt. Trộn thật kỹ các phần bằng nhau của các mẫu ban đầu với nhau để thành mẫu chung.

Bảng 3 – Khuyến nghị số lượng các bao gói được lấy mẫu

Cỡ của các bao gói

Số lượng bao gói có trong chuyến hàng

Số lượng bao gói được lấy mẫu

≥ 20 kg cho đến tối đa 5 tấn

1 đến 5

tất cảa)

6 đến 50

6

51 đến 75

8

76 đến 100

10

101 đến 250

15

251 đến 500

20

501 đến 1000

25

> 1000

30

≥ 5 kg và ≤ 20 kg

1 đến 20

tất cảa)

21 đến 200

20

201 đến 800

25

801 đến 1600

35

1601 đến 3200

45

3201 đến 8000

60

8001 đến 16000

72

16001 đến 24000

84

24001 đến 32000

96

> 32000

108

≤ 5 kg

1 đến 20

tất cảa)

21 đến 1500

20

1501 đến 5000

25

5001 đến 15000

35

15001 đến 35000

45

35001 đến 60000

60

60001 đến 90000

72

90001 đến 130000

84

130001 đến 170000

96

> 170000

108

a) Xem 6.8.1 đối với các cách xử lý khác nhau.

6.8.2.3. Cách tiến hành đối với các bao gói chứa chất béo rắn rời

Lấy một lượng mẫu thích hợp để được mẫu đại diện cho tất cả các cỡ miếng, làm nhỏ các miếng, nếu cần thiết, thái thành từng miếng nhỏ từ tất cả các phần khác nhau. Chia tư mẫu nhận được để được cỡ mẫu thích hợp.

Nhào trộn các miếng đó với nhau cho đến khi trở thành bột nhão đồng nhất. Trộn bằng thìa to (có chiều dài khoảng 250 mm) để cho các hạt bẩn hoặc/và các giọt nước đọng lại được phân bố trong đó. Bằng phương pháp chia tư, dùng thìa trộn làm rút gọn mẫu nhận được đến cỡ mẫu yêu cầu.

Nếu các mẫu chất béo quá cứng đối với việc trộn bằng tay, thì cho phép để nó vào một chỗ nóng cho đến khi đủ mềm, nhưng không được đun nóng trực tiếp, bởi vì điều này có thể làm thất thoát độ ẩm do bay hơi.

Trộn và chia nhỏ các mẫu ban đầu để chuẩn bị cho mẫu chung có thể được tiến hành trên mặt phẳng tấm thủy tinh, đá trắng hoặc thép không gỉ có diện tích không nhỏ hơn 750 mm2 đặt trên bàn trộn hoặc ghế dài.

6.9. Chuẩn bị mẫu thử nghiệm

Nếu có yêu cầu phân tích các chất nhiễm bẩn, mẫu lấy tại mỗi bể chứa cũng phải tuân theo những qui định như mẫu thử nghiệm. Mặt khác theo thỏa thuận giữa các bên liên quan, chuẩn bị mẫu thử nghiệm từ các mẫu chung (xem 6.2 đến 6.8) theo các bước như sau:

a) sau khi mẫu trung bình đã cân và được chuẩn bị từ mẫu chung, hoặc

b) sử dụng từng mẫu chung (nếu các bên liên quan đã thỏa thuận được với nhau, thì phòng thử nghiệm có thể chuẩn bị mẫu trung bình đã cân từ các mẫu thử nghiệm).

Dù theo bất cứ qui trình nào, a) hay b) đều phải chia các mẫu chung đã được chuẩn bị để nhận được ít nhất 4 mẫu thử nghiệm, mỗi mẫu không nhỏ hơn 250 g, khuấy liên tục để ngăn ngừa sự lắng của cặn.

CHÚ THÍCH: Đối với một số mục đích nhất định, có thể yêu cầu mẫu thử nghiệm nhỏ nhất là 500g.

7. Bao gói và ghi nhãn mẫu thử nghiệm

7.1. Bao gói

Bao gói mẫu thử nghiệm trong các bao bì thủy tinh, chất dẻo, phải khô theo yêu cầu theo 4.2. Tất cả các phương tiện chứa phải đựng gần đầy nhưng không được quá đầy, để một khoảng không trên bề mặt cho sự giãn nở của chất béo. Khoảng không này không quá lớn vì không khí ảnh hưởng đến hầu hết các loại chất béo.

Nếu không có sự thỏa thuận nào khác, thì phương tiện chứa mẫu phải được đóng kín bằng nút bần hoặc bằng nắp kim loại hoặc nắp nhựa nhưng nắp kim loại, nắp nhựa không được bọc bằng đồng, kẽm hoặc sắt khi tiếp xúc với dầu hoặc chất béo theo yêu cầu của 4.2. Khi quá trình đóng kín kết thúc cần phải niêm phong lại, mẫu sẽ không được chấp nhận nếu dấu niêm phong bị gãy hoặc bị cứng lại. Nên đóng dấu niêm phong ở chỗ thích hợp trên thùng chứa và đặt vào trong túi chất dẻo có thể an toàn cho dấu niêm phong. Không sử dụng dấu niêm phong bằng sáp ong đối với mỗi thùng chứa.

CẢNH BÁO – Tất cả các mẫu phải được bảo vệ tránh ánh sáng và nhiệt

Nếu có ý định dùng mẫu thử nghiệm cho các phép thử đặc biệt, cần phải lựa chọn phương pháp bao gói thích hợp.

7.2. Các thông tin có liên quan đến mẫu thử nghiệm

Các chi tiết đầy đủ về lấy mẫu, số lượng các bao gói được lấy mẫu, v.v… đều phải ghi lại và nhãn có ghi những đặc điểm của mẫu phải được dán chắc chắn trên mỗi phương tiện đựng mẫu.

Trên nhãn phải ghi tất cả các thông tin cần thiết để nhận biết mẫu thử như sau:

a) nhận biết được hàng chở bằng tàu thủy hay bằng các phương tiện chuyên chở khác;

b) địa điểm lấy hàng;

c) địa điểm dỡ hàng;

c) ngày hàng đến;

e) số lượng hàng tương ứng, tính bằng kilôgam hay bằng tấn;

f) hàng được đựng trong thùng, bao gói nhỏ hay ở dạng khối rời;

g) hàng hóa và nguồn gốc;

h) dấu hiệu nhận biết;

i) số vận đơn, ngày tháng hay số thứ tự và ngày tháng;

j) người lấy mẫu/người có thẩm quyền

k) phương pháp và mục đích lấy mẫu;

l) ngày lấy mẫu;

m) địa điểm và vị trí lấy mẫu;

n) tên cơ quan chịu trách nhiệm về các điều khoản của hợp đồng.

CHÚ THÍCH 5: Các từ a) đến d) không áp dụng cho các bể chứa tĩnh.

Các thông tin trên nhãn được ghi do người chuyên ghi nhãn.

Nếu sử dụng giấy để ghi nhãn thì loại giấy này phải có chất lượng và kích cỡ phù hợp với mục đích của nó. Lỗ để buộc nhãn phải chắc chắn.

8. Cách gửi mẫu thử nghiệm

Nếu phương tiện chứa đã có nhãn nhưng dấu niêm phong không được chắc chắn thì phương tiện chứa đó phải được đặt vào trong một túi chất dẻo kín, phù hợp và phải niêm phong một cách chắc chắn.

Các phương tiện chứa bằng thủy tinh phải được bảo vệ bằng cách bọc một lớp màng dẻo có bọt khí xốp, bên ngoài bao quanh một lớp vật liệu chống thấm và toàn bộ được đặt vào trong một phương tiện đựng trong thùng chứa cứng và chắc chắn.

Việc đóng gói cần tuân theo qui định của bưu điện và của các cơ quan ở trong nước hoặc các nước có liên quan đến vận chuyển mẫu.

Mẫu cần được gửi đi càng sớm càng tốt, trong vòng 48 giờ, không tính những ngày không làm việc.

Mẫu phải được giữ mát và càng tránh xa ánh sáng càng tốt, trừ khi được qui định để xác định khối lượng qui ước theo thể tích (“khối lượng của 1 lít mẫu trong không khí”).

9. Báo cáo lấy mẫu

Báo cáo lấy mẫu phải đưa ra các thông tin được liệt kê ở 7.2 và phải nêu lên trạng thái vật lý của chất béo đã được lấy mẫu. Báo cáo cũng phải mô tả cách tiến hành lấy mẫu đã thực hiện. Nếu điều đó khác với phương pháp được mô tả trong tiêu chuẩn này, thì phải ghi lại tất cả các chi tiết của các trường hợp có thể ảnh hưởng đến việc lấy mẫu.

 

Phụ lục A

(tham khảo)

Giới hạn nhiệt độ

Bảng A.1 trình bày dải nhiệt độ được duy trì khi lấy các mẫu ban đầu.

Để dễ dàng xử lý thì nhiệt độ tối đa được nêu trong bảng A.1 có thể vượt quá 50C, nhưng chỉ thực hiện khi đã được thỏa thuận giữa các bên hữu quan và nhiệt độ đó phải được nêu ra trong báo cáo lấy mẫu.

CHÚ THÍCH: Nhiệt độ có thể được thay đổi cho phù hợp với điều kiện khí hậu của địa phương, ví dụ ở vùng khí hậu nóng, nhiệt độ môi trường có thể cao hơn nhiệt độ tối đa đưa ra trong bảng A.1.

Nói chung, toàn bộ chất béo cần được giữ ở nhiệt độ từ 50C đến 150C trên điểm hóa trong của nó. Chất béo có thể không cần đun nóng đến nhiệt độ cao hơn vì các tính chất của nó có thể bị biến đổi, ví dụ như bị ôxy hóa.

Tránh đun quá nóng các mẫu được lấy từ khối chất béo.

Nếu chất béo được giữ ở nhiệt độ quá thấp thì các tinh thể có thể hình thành và lắng xuống dẫn đến sự không đồng nhất.

Bảng A.1 – Giới hạn nhiệt độ

Sản phẩm

Nhiệt độ, 0C

Tối thiểu

Tối đa

Dầu thầu dầu

30

35

Axit béo dầu dừa

45

48

Dầu dừa

40

45

Dầu bông

20

25

Các axit béo chưng cất

45

48

Dầu cá

25

30

Dầu hạt bưởi

15

20

Chất béo gia súc

50

55

Dầu lạc

20

25

Illipe

50

55

Chất béo lợn

50

55

Dầu lanh

15

20

Dầu ngô

15

20

Dầu oiticica

35

38

Oleo magazin

50

55

Oleo stearin

60

65

Dầu ôliu

15

20

Axit dầu cọ

67

72

Dầu cọ béo đã chưng cất

67

72

Dầu nhân cọ

40

45

olein nhân cọ

30

35

Stearin nhân cọ

40

45

Dầu cọ

50

55

Olein dầu cọ

32

35

Stearin dầu cọ

60

70

Dầu cải dầu (loại HEAR)

15

20

Dầu cải dầu (loại HEAR hoặc Canola)

15

20

Dầu rum

15

20

Dầu vừng

15

20

Bơ sheanut

50

55

Axit béo dầu đậu nành

45

50

Dầu đậu nành

20

25

Dầu hướng dương

15

20

axit béo dầu hướng dương/đậu nành

49

55

Chất béo để làm nến, xà phòng

55

65

Dầu hạt chè

15

20

Dầu trầu

20

 25

 

Phụ lục B

(tham khảo)

Kiểu mẫu các dụng cụ lấy mẫu và các thiết bị phụ trợ

B.1. Bình lấy mẫu đơn giản đã được xác định khối lượng

Bình lấy mẫu đơn giản đã được xác định khối lượng (xem hình B.1) rất phù hợp cho việc lấy mẫu tại các độ sâu ở tất cả các loại kích cỡ của bể chứa. Nó gồm một bình chứa hình trụ (dung tích khoảng 500 ml) làm bằng thép không gỉ, có chân đế nặng ở một ngăn riêng và một bình có cổ hình côn.

Lắp vào vai bình về phía trên đỉnh một cái quai làm bằng dây kim loại tròn có một vòng treo ở đỉnh được xuyên qua bằng sợi dây và một nút lie được cột chặt vào để làm nắp đậy của bình.

Bình lấy mẫu rỗng có nút lie này được đưa sâu vào trong chất béo lỏng ở độ sâu qui định. Khi đó nút lie được xoắn mạnh làm nó mở ra và bình được rót đầy sản phẩm.

Hình B.1 – Bình lấy mẫu đơn giản đã xác định khối lượng

B.2. Khung đã xác định khối lượng để giữ chai lấy mẫu

Khung đã được xác định khối lượng (xem B.2) được thiết kế để giữ chai lấy mẫu bằng chất dẻo chuẩn trong 7.1 (dung tích khoảng 500 ml) và nó phù hợp cho việc lấy mẫu tại các độ sâu ở tất cả các kích thước của thùng chứa. Nó gồm một chân đế nặng gắn chặt vào ba cái đai thẳng đứng và một nẹp giữ ở điểm cao trên cùng. Hai đai được tạo ra một góc để nó được định vị vào một dây kim loại tròn bằng một vòng treo ở đỉnh.

Gắn chặt dây kim loại tròn vào các đai để đảm bảo quai thứ ba giữ được chai ở trong khung. Một dây xuyên qua vòng treo của dây kim loại tròn và một nút lie được gắn vào đó làm nắp đậy của chai.

Các thao tác lấy mẫu bằng dụng cụ lấy mẫu này cũng như ở bình lấy mẫu đã được xác định khối lượng (B.1).

Hình B.2 – Khung đã xác định khối lượng để giữ chai lấy mẫu

B.3. Xyranh lấy mẫu có van (dụng cụ lấy mẫu ở sâu)

Xyranh lấy mẫu có van (xem hình B.3) gồm có một ống hình trụ hở đầu có van ở đáy được mở ra nhờ áp lực của chất béo trên van khi phương tiện lấy mẫu này được đưa sâu vào trong lớp chất béo lỏng và chất béo sẽ chảy thẳng vào trong xyranh. Khi được đưa xuống sâu và dừng lại, van sẽ được đóng và chất béo sẽ từ độ sâu đó chảy vào xyranh.

Một số dụng cụ lấy mẫu ở dạng này có các chức năng kết hợp với một van nhẹ có nắp ở trên đầu, qua đó xyranh sẽ đóng lại khi nó đã đầy chất béo.

Hình B.3 – Xyranh lấy mẫu có van (dụng cụ lấy mẫu ở sâu)

B.4. Dụng cụ lấy mẫu ở đáy

B.4.1. Loại có van được tác động bằng lò xo

Loại dụng cụ lấy mẫu ở đáy này (xem hình B.4a) được thiết kế bằng thép không gỉ. Nó gồm có thân là một ống hình trụ (dung tích khoảng 500ml) được bắt vít trên đế kết hợp với một van đĩa để cho sản phẩm được đưa vào tận đáy của thiết bị lấy mẫu và một van đĩa được bắt vít trên đỉnh để cho không khí được thoát ra khỏi thiết bị lấy mẫu. Trên đỉnh được bắt vít một cái đai để treo dụng cụ lấy mẫu bằng một sợi dây thừng với một cầu dẫn bắc ngang và một cái hãm bằng lò xo cho trục van trung tâm. Chiều của trục van ở dưới đáy của dụng cụ lấy mẫu và khi đưa nó vào đáy thùng chứa, trục được đẩy lên tận xyranh và đập vào lò xo ánh sáng, đầu tiên là van được mở ra ở đáy, sau đó sẽ xảy ra một cản trở nhỏ ở trên đỉnh, điều đó tác động đến một lỗ nhỏ ở trên đỉnh xyranh. Mục đích của cản trở nhỏ này là đường vào và đường ra của van được mở để cho sản phẩm chảy vào đến tận đáy, như vậy sẽ tạo ra sự tăng nhẹ áp lực bên trong bình nhằm ngăn ngừa sản phẩm chảy lên tận đỉnh khi van ở trên đỉnh mở.

Khi dụng cụ lấy mẫu này quá nhẹ và bị nổi lên thì khắc phục bằng cách gia tăng thêm vòng treo hình khuyên làm bằng thép không gỉ trượt được trên ống của phương tiện lấy mẫu và được vít giữ lại ở đáy.

a) Với van tác động bằng lò xo

b) Với van tải trọng

Hình B.4 – Dụng cụ lấy mẫu dưới đáy

B.4.2. Loại có van tải trọng

Dụng cụ lấy mẫu ở đáy này (xem hình B.4b) về thiết kế và thao tác cơ bản giống dụng cụ lấy mẫu loại có van tác động bằng lò xo (B.4.1), ngoài ra van ở dưới được đóng bằng tải trọng và để cho không khí được thoát ra qua phần thu nhỏ lại của trục van ở trên đỉnh của nó.

B.5. Ống lấy mẫu

Ống lấy mẫu được trình bày ở hình B.5 a) là dụng cụ được làm bằng thép không gỉ, gồm có hai ống đồng tâm, chiếc này được lồng khít vào chiếc kia suốt cả toàn bộ chiều dài, sao cho một ống có thể xoay quanh ống kia. Ở mỗi ống có các khe hở được cắt dọc theo chiều dài. Có một vị trí trên ống được để hở để cho chất béo chảy và bằng cách xoay ống ngoài và ống trong sẽ trở thành ống chứa kín.

Đường kính của ống trong từ 20 mm đến 40 mm và trên chiều dài không bị phân chia. Hai ống này có các lỗ thẳng hàng với nhau để khi đổ chất béo ra, chất béo chứa trong ống có thể chảy ra qua các lỗ đó khi các khe hở dọc chiều dài được đóng lại.

Ống lấy mẫu trình bày ở hình B.5 b) có thể làm bằng thép không gỉ hoặc nhôm hoặc chất dẻo theo yêu cầu của 4.2. Nó được lồng vào nhau, được đóng hoặc mở ở trên đỉnh bằng ngón tay theo yêu cầu. Nếu cần, nhấc ngón tay ra khỏi đỉnh ống để mở cho chất béo chảy vào. Sau đó được bịt lại bằng ngón tay và rút ra.

Dụng cụ này dùng để lấy mẫu tại những mức khác nhau ở thùng tròn bằng cách bịt kín trên đỉnh ống cho đến khi được đưa xuống đến độ sâu cần lấy mẫu.

Hình B.5 – Ống lấy mẫu

B.6. Các loại muôi dùng để lấy mẫu

Các loại muôi dùng để lấy mẫu (xem hình B.6) được dùng để lấy mẫu chất béo ở trạng thái rắn. Muôi được làm bằng thép không gỉ và có mặt cắt ngang hình bán nguyệt hoặc dạng hình chữ C. Khi đưa muôi vào trong thùng chất béo theo chuyển động xoắn thì trong lòng muôi đã được chứa đầy chất béo.

Hình B.6 – Các loại muôi dùng để lấy mẫu

B.7. Thước đo nước

Thước đo nước (xem hình B.7) được làm bằng một thanh thép không gỉ, có chiều dài khoảng 305 mm và mặt cắt ngang khoảng 30 mm x 10 mm. Thước được chia độ từ 0 mm đến 300 mm với độ chia 1 mm, cứ 10 mm thì được đánh dấu. Trên thước có hai cái kẹp tác động bằng lò xo dùng giữ băng giấy xác định nước.

Hồ bột để xác định nước theo 4.2 có thể được dán trực tiếp trên bề mặt của thước.

Thước đo nước (B.7) và thước xác định độ vơi (B.8) có thể kết hợp làm thành một thước đơn giản, một mặt được chia độ dùng để đo nước và mặt bên kia dùng để đo độ vơi.

B.8. Thước đo độ vơi

Thước đo độ vơi (xem hình B.8) được làm bằng một thanh thép không gỉ, chiều dài khoảng 305 mm và mặt cắt ngang khoảng 30 mm x 10 mm. Thước được thiết kế chỉ sử dụng mỗi thước dây bằng thép kết hợp với một quả cân để cho nó chìm, chia độ trên thanh thước bắt đầu từ số 0 ở điểm giữa của thước. Từ đây thước được chia độ về phía dưới thước, bắt đầu từ 0 mm đến 150 mm và mỗi vạch chia là 1 mm, cứ 10 mm thì được đánh dấu. Xem B.7.

Hình B.7 – Thước đo nước

Hình B.8 – Thước đo độ vơi

B.9. Nhiệt kế

Sử dụng nhiệt kế bằng thủy tinh chứa chất lỏng, đặc biệt chú ý phần cảnh báo ở 4.2. Giống như cảnh báo đối với nhiệt kế đo chất lỏng. Nên dùng nhiệt kế kỹ thuật số với đầu dò bằng thép không gỉ.

B.10. Thước dây và cân

Thước dây phải được làm bằng thép và có thể thu gọn lại được toàn bộ thước cùng với quả cân để chìm và một móc bằng sắt không gỉ quay được, gắn trên cân hoặc thước.

Thước cũng có thể cuộn lại được trên khung cây quấn hoặc để trong túi sao cho phù hợp với nó. Chiều dài của thước theo qui định, được chia độ và đánh dấu để phù hợp với việc xác định đường kính của thùng chứa sản phẩm sẽ được đo. Cân được làm bằng thép không gỉ kết hợp với thước dây và được chia độ liên tục để đo, giống như ở thước dây và bắt đầu từ số 0.

B.11. Các thông tin thêm

Các thiết kế của phương tiện lấy mẫu và các thiết bị phụ trợ được mô tả từ B.1 đến B.8 đều tuân theo qui định trong 4.2, nếu làm được càng đơn giản càng tốt. Trong hầu hết các trường hợp, các phương tiện này có thể được sản xuất bằng vật liệu dễ kiếm. Tại một số nước, loại này có thể được chào hàng do các nhà cung cấp được đưa ra dưới đây.1)

a) Các nhà cung cấp các dụng cụ lấy mẫu

SGS Depauw & Stokoe NV, Haven 407, Polderdijkweg 16, B-2030 Antwerp, Belgium.

SGS Redwood (UK) Ltd., Rossmore Business Park, Ellesmere Port, South Wirral, L65 3EN, U.K.

Petrochem Supplies, 8 Northbury Road, Great Sutton, South Wirral L66 2QY, Cheshire, U.K.

Wragg Bros (Metal Fabrications) Ltd., Robert Way, Wickfort Industrial Estate, Wickfort SS11 8DQ, Essex, U.K.

Zone Devices Inc., 3449 Ocean View Boulevard, Glendale, CA 91208, USA.

b) Các nhà cung cấp dụng cụ đo

Petrochem Supplies, 8 Northbury Road, Great Sutton, South Wirral L66 2QY, Cheshire, U.K.

SGS Depauw & Stokoe NV, Haven 407, Polderdijkweg 16, B-2030 Antwerp, Belgium.

SGS Redwood (UK) Ltd., Rossmore Business Park, Ellesmere Port, South Wirral, L65 3EN, U.K.

Wragg Bros (Metal Fabrications) Ltd., Robert Way, Wickfort Industrial Estate, Wickfort, SS11 8DQ, Essex, U.K.

c) Các nhà cung cấp vật liệu để đo lượng nước

Vecom B.V., Mozartlaan 3, 3144 NA Maassluis, Holand.

Paterson Group International, Stafford Park 1, Telford, Shropshire, TF3 3BT, UK.

Petrochem Supplies, 8 Northbury Road, Great Sutton, South Wirral, L66 2QY, Cheshire, U.K.

 

Phụ lục C

(tham khảo)

Thư mục tài liệu tham khảo

TCVN 6400:1998 (ISO 707:1997), Sữa và sản phẩm sữa – Phương pháp lấy mẫu.

ISO 2859 (all part), Sampling procedures for inspection by attributes.

ISO 3951:1989, Sampling procedures and charts for inspection by variable for percent nonconforming.

ISO 3954-1:1993, Statistics – Vocabulary and symbols – Part 1: Probability and general statistical terms.

ISO 3954-2:1993, Statistics – Vocabulary and symbols – Part 2: Statistical quality control.



1) Xem 6.2.1.2.

1) Đây là một số mẫu chào hàng của các nhà cung cấp. Thông tin này được đưa ra nhằm thuận tiện cho những người sử dụng tiêu chuẩn này và nó không phải là các thông tin dùng để ủy nhiệm xác nhận theo ISO cho các nhà cung cấp.

TIÊU CHUẨN QUỐC GIA TCVN 2625:2007 (ISO 5555:2001) VỀ DẦU MỠ ĐỘNG VẬT VÀ THỰC VẬT – LẤY MẪU
Số, ký hiệu văn bản TCVN2625:2007 Ngày hiệu lực
Loại văn bản Tiêu chuẩn Việt Nam Ngày đăng công báo
Lĩnh vực An toàn thực phẩm
Ngày ban hành
Cơ quan ban hành Tình trạng Còn hiệu lực

Các văn bản liên kết

Văn bản được hướng dẫn Văn bản hướng dẫn
Văn bản được hợp nhất Văn bản hợp nhất
Văn bản bị sửa đổi, bổ sung Văn bản sửa đổi, bổ sung
Văn bản bị đính chính Văn bản đính chính
Văn bản bị thay thế Văn bản thay thế
Văn bản được dẫn chiếu Văn bản căn cứ

Tải văn bản