22. Khai báo tạm trú cho người nước ngoài của cơ sở lưu trú không phải là khách sạn với Công an cấp tỉnh

Posted on

Hiện nay khâu khai báo tạm trú cho khách nước ngoài thuận tiện, nhanh chóng hơn nhờ việc thực hiện thủ tục này qua mạng Internet. Đối với việc khai báo tạm trú cho người nước ngoài của cơ sở lưu trú không phải là khách sạn với  Công an cấp tỉnh cũng được thực hiện tương tự. Sau đây, căn cứ vào Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Dữ Liệu Pháp Lý sẽ cụ thể hơn về vấn đề này:

  1. Về khai báo tạm trú cho người nước ngoài của cơ sở lưu trú không phải là khách sạn với Công an cấp tỉnh

Cơ sở lưu trú là nơi tạm trú của người nước ngoài trên lãnh thổ Việt Nam, bao gồm các cơ sở lưu trú du lịch, nhà khách, khu nhà ở cho người nước ngoài làm việc, lao động, học tập, thực tập, cơ sở khám bệnh, chữa bệnh, nhà riêng hoặc cơ sở lưu trú khác theo quy định của pháp luật – Theo Điều 32 Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam

Theo Điều 33 Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam về  khai báo tạm trú

+ Người nước ngoài tạm trú tại Việt Nam phải thông qua người trực tiếp quản lý, điều hành hoạt động của cơ sở lưu trú để khai báo tạm trú với Công an xã, phường, thị trấn hoặc đồn, trạm Công an nơi có cơ sở lưu trú.

=> Trước đây, việc khai báo tạm trú cho khách lưu trú được thực hiện thủ công. Đại diện cơ sở lưu trú phải viết tay theo mẫu và đến đăng ký trực tiếp tại trụ sở công an. Tuy nhiên, Hiện nay thủ tục này ngày càng được rút gọn và thực hiện một cách dễ dàng và nhanh chóng.

  1. Yêu cầu, điều kiện thực hiện

– Theo Khoản 3, Điều 33 Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam cơ sở lưu trú khác có mạng Internet có thể gửi trực tiếp thông tin khai báo tạm trú của người nước ngoài theo hộp thư điện tử công khai của cơ quan quản lý xuất nhập cảnh Công an tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.

Khoản 4, Điều 33 Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam người nước ngoài thay đổi nơi tạm trú hoặc tạm trú ngoài địa chỉ ghi trong thẻ thường trú, thì cơ sở lưu trú không phải là khách sạn phải thực hiện khai báo tạm trú lại cho người nước ngoài

  1. Tạm trú tại khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế cửa khẩu, khu kinh tế ven biển, khu vực biên giới và đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt

Căn cứ Khoản 1,2, Điều 34 Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam quy định về trường hợp Tạm trú tại khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế cửa khẩu, khu kinh tế ven biển, khu vực biên giới và đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt:

+ Người nước ngoài được tạm trú ở cơ sở lưu trú tại khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế cửa khẩu, khu kinh tế ven biển và thực hiện việc khai báo tạm trú theo quy định tại Điều 33 của Luật này.

+ Người nước ngoài không được tạm trú tại khu vực cấm, khu vực tạm dừng các hoạt động trong khu vực biên giới đất liền; vùng cấm, khu vực hạn chế hoạt động trong khu vực biên giới biển. Trường hợp tạm trú tại cơ sở lưu trú trong khu vực biên giới hoặc thị trấn, thị xã, thành phố, khu du lịch, dịch vụ, đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt, khu kinh tế khác có liên quan đến khu vực biên giới thì khai báo tạm trú theo quy định tại Điều 33 của Luật này. Cơ quan tiếp nhận khai báo tạm trú của người nước ngoài có trách nhiệm thông báo cho đồn biên phòng nơi có cơ sở lưu trú.

Kết luận: Việc khai báo tạm trú cho người nước ngoài của cơ sở lưu trú không phải là khách sạn với  Công an cấp tỉnh là trách nhiệm của đại diện cơ sở lưu trú. Chính vì vậy khi thực hiện thủ tục này cần lưu ý những quy định của pháp luật về Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam.