TIÊU CHUẨN NGÀNH 10TCN 480:2001 VỀ QUY TRÌNH KỸ THUẬT TRỒNG, CHĂM SÓC VÀ THU HOẠCH NHÃN DO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN BAN HÀNH
QUY TRÌNH KỸ THUẬT TRỒNG, CHĂM SÓC VÀ THU HOẠCH NHÃN
The technical procedure for planting, caring, harvesting of longan
1- Phạm vi áp dụng: Quy trình này được áp dụng cho cây nhãn nhiệt đới (Dimocarpus Longan (Lour.) steud ) trồng từ Quảng Nam – Đà Nẵng trở vào phía Nam.
2.1. Nhiệt độ:
Nhiệt độ bình quân hàng năm 21-27° C thích hợp cho cây sinh trưởng và phát triển. Cây nhãn cần một thời gian ngắn với nhiệt độ 15-22°C trong vài tuần để tiến hành phân hóa mầm hoa và sau đó là điều kiện nhiệt độ cao hơn khoảng 25-32° C cho hoa nhãn phát triển.
2.2. ánh sáng:
Nhãn cần ánh sáng, ánh sáng phân bố điều bên trong tán giúp cây ra nhiều đọt non. Trong quá trình sinh trưởng và phát triển thích ánh sáng tán xạ hơn ánh sáng trực xạ.
2.3. Nước:
Nhãn là cây ưa ẩm nhưng không chịu úng, nếu ngập 48 giờ cây sẽ chết, ngược lại gặp khô hạn kéo dài làm cho cây sinh trưởng chậm, ra hoa và đậu trái khó khăn.
2.4. Đất đai:
Đất cát pha thịt, đất đỏ, đất phù sa có thành phần cơ giới nhẹ thích hợp cho việc trồng nhãn hơn trên các loại đất khác. Cây nhãn sinh trưởng tốt trong điều kiện đất thoát nước, tơi xốp, pH kcl khoảng 5,5-6,5; độ mặn thấp nhỏ hơn 0,2%.
3.1. Đào mương lên líp (luống):
Vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long cần phải đào mương lên líp nhằm xả phèn, mặn và nâng cao tầng canh tác. Líp có chiều rộng trung bình 7-8 m, mương rộng 2-3 m, sâu 1-1,5 m. Vùng đất cao phải chọn nơi có nguồn nước hoặc nước ngầm để tưới cho cây nhãn vào mùa nắng.
3.2. Trồng cây chắn gió:
Khi qui hoạch vườn nhãn trước hết phải trồng cây chắn gió. Cây chắn gió thường là cây có thân to, khỏe như Mít, Xoài, Cóc, Dừa… , được trồng dọc theo phía ngoài, thẳng góc với hướng gió chính.
3.3. Mật độ và Khoảng cách trồng:
Trồng cây trong vườn theo kiểu sau: hình vuông, hình chữ nhật hoặc hình nanh sấu.
Bảng 1: Mật độ và khoảng cách trồng theo vùng
Vùng trồng |
Mật độ trồng (cây/ha) |
Khoảngcách trồng (m) |
Đồng Bằng Sông Cửu Long Đông Nam Bộ
Miền trung và Duyên hải Nam Trung Bộ |
320 330 300 |
5 x 5 5 x 6 5 x 6,5 |
Chọn một số giống nhãn đạt năng suất cao, phẩm chất ngon là: Nhãn xuồng cơm vàng, Nhãn Super(nhóm nhãn long), Tiêu da bò (tiêu Huế).
5. Kỹ thuật trồng và chăm sóc:
5.1. Thời vụ trồng:
Vùng ĐBSCL, Đông Nam Bộ và Tây Nguyên bắt đầu trồng nhãn khi mùa mưa ổn định, thường từ tháng 6-7.
Vùng Duyên Hải Nam Trung Bộ bắt đầu trồng nhãn vào đầu mùa mưa, thường vào tháng 8-9.
5.2. Chuẩn bị hố và cách trồng:
– Miền Đông, vùng Duyên Hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên: hố trồng nhãn có kích thước dài x rộng x sâu(1:1: 0,7 m), trộn đều 20-40 kg phân chuồng hoai, 1 kg super lân và 0,5 kg vôi với đất mặt rồi gạt xuống hố. Khi trồng đặt cây giữa hố, mặt bầu cần cao hơn mặt đất vườn 20 cm, dùng dao cắt đáy bầu, rạch theo chiều dọc của bầu để kéo bao nilon lên, nén đất xung quanh bầu, cắm cọc giữ cây con, dùng rơm hay cỏ khô đậy kín, tưới nước đủ ẩm.
– Đồng Bằng Sông Cửu Long: nên làm mô trên đất đã được lên líp, mô đất đắp thành hình tròn đường kính khoảng 0,6-0,8 m, độ cao thường là 0,3-0,6 m, đất đắp mô được trộn với hỗn hợp 200-300 g super lân; 0,5 kg vôi, 15-20 kg phân chuồng hoai và tro trấu. Khi trồng dùng dao cắt đáy bầu, đặt cây xuống giữa mô và mặt bầu bằng với mặt mô, rạch theo chiều dọc của bầu để kéo bao nilon lên và đắp đất lại nén đất xung quanh, cắm cọc giữ cây con, dùng rơm hay cỏ khô đậy kín, tưới nước đủ ẩm.
5.3. Tủ gốc giữ ẩm:
Hằng năm nên đắp thêm đất vào chân mô, vào mùa nắng cần phủ kín xung quanh tán cây bằng rơm, thân đậu hay cỏ khô. Phủ cách xa gốc nhãn 20 cm để phòng nấm bệnh gây hại.
5.4. Làm cỏ và trồng xen:
Khi cây nhãn chưa khép tán cần làm sạch cỏ xung quanh gốc theo đường kính tán cây, thông thường làm 4-5 đợt/năm, kết hợp bón phân. Nên trồng xen cây họ đậu để cải tạo đất và tạo nguồn phân hữu cơ cho cây ăn quả.
5.5. Tưới nước:
Thời gian từ khi bắt đầu ra hoa, quả phát triển và giai đoạn phát triển cành sau khi thu hoạch cần phải tưới nước cho cây định kỳ 2 ngày/ lần nếu trời không mưa.
5.6. Tỉa cành và tạo tán:
5.6.1. Tạo tán: Khi cây còn nhỏ cần tỉa bỏ ngọn cây cách mặt đất khoảng 0,8-1 m và những cành dầy, cành vượt, cành đan chéo trên thân cây. Tuyển chọn lại 3-4 cành phân bố đều theo các hướng, cách nhau 10-20 cm. Cành thứ nhất nên cách mặt đất 50-80 cm.
Sau khi trồng 12-18 tháng tiến hành tỉa bỏ những cành mọc thẳng đứng, cành hướng vào giữa tán cây, cành bị che khuất mọc gần gốc…, định hướng tạo dáng cây có bộ khung cơ bản thông thoáng.
5.6.2. Tỉa cành: Hàng năm việc tỉa cành bao gồm: cành mang hoa vụ trước, cành và lá bị sâu bệnh, cành mọc nằm bên trong tán và những cành già. Việc tỉa cành này được thực hiện ngay sau khi thu hoạch.
5.7. Bón phân:
Lượng phân bón cho nhãn cần căn cứ vào độ lớn của cây, sản lượng quả hàng năm, giống và độ màu mở của đất để bón phân.
5.7.1. Bón phân thời kỳ kiến thiết cơ bản:
Đối với cây 1-3 năm tuổi: sau khi trồng cây nhãn bắt đầu ra đợt đọt non thứ 2 thì bón phân. Năm đầu tiên cây còn nhỏ nên pha phân vào nước để tưới, phải cách gốc 20-25 cm để tránh phân làm cháy rễ, hàng năm bón thêm phân hữu cơ hoai mục 5-10kg/cây.
Bảng 2: Liều lượng phân bón cho cây nhãn ở thời kỳ kiến thiết cơ bản
Tuổi cây (năm) |
Số Đợt bón (Đợt/năm) |
Liều lượng (g/cây/năm) |
|||||
N |
Tương đương Urê |
P2O5 |
Tương đương Super lân |
K2O |
Tương đương KCl |
||
1 2 3 |
4 – 5 3 – 4 3 |
100 200 300 |
217 435 652 |
50 70 100 |
303 424 606 |
100 150 200 |
167 250 333 |
5.7.2. Bón phân thời kỳ khai thác
Đối với cây trên 3 năm tuổi, số lượng phân bón trên (thời kỳ kiến thiết cơ bản) tăng dần từ 20-30% mỗi năm và số lần bón trong năm được chia ra như sau:
Lần 1: Sau khi thu hoạch quả một tuần bón: 60%N + 60%P2O5 +25% K2O.
Lần 2: Trước khi cây ra hoa 5 tuần bón: 40% P2O5 + 25% K2 O.
Lần 3: Đường kính quả khoảng 1cm bón: 40%N + 25% K2O.
Lần 4: Trước khi thu hoạch quả 1 tháng bón: 25% K2O.
Hàng năm cần bón thêm phân chuồng hoai mục khoảng 10-20kg/ gốc/ năm hoặc bón phân tro trấu, xác thân đậu, vỏ đậu. Tùy tình hình sinh trưởng, năng suất nhãn của vụ trước mà điều chỉnh lượng phân bón NPK cho vụ nhãn kế tiếp.
5.7.3. Phương pháp bón phân:
Vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long: Đào rãnh xung quanh gốc theo hình chiếu tán cây, sâu 10-20 cm cho phân vào lấp đất lại, tưới nước đủ ẩm.
Vùng Đông Nam Bộ, Duyên Hải Nam Trung Bộ: Đào rãnh xung quanh tán cây rộng 20-30 cm sâu 10-10 cm, lượng phân bón được cho vào rãnh sau đó lấp đất lại, tưới nước đủ ẩm.
5.8. Xử lý ra hoa:
5.8.1. Nhãn tiêu da bò:
Nhãn tiêu da bò 2 năm có thể cho được 3 vụ quả: sau khi thu hoạch quả vụ trước tiến hành bón phân, loại bỏ những cành cằn cỗi, cành vô hiệu. Khi lá nhãn của đợt thứ 2 có màu xanh đọt chuối (thường gọi lá lụa) thì dùng dao hay nứa khoanh vỏ vòng tròn quanh thân cành. Chỉ khoanh vỏ trên những cành chính và nên để lại 1-2 cành thường được gọi là nhánh thở để tiếp tục quang hợp nuôi cây. Vết khoanh rộng khoảng 1,5-2 mm (đối với cành nhỏ), 3-5 mm (đối với cành lớn), dùng dây nilon quấn kín nhiều vòng vào chỗ đã khắc. Từ lúc khoanh vỏ đến khi nhãn ra hoa khoảng 20-35 ngày (tùy vào tuổi cây), thời gian này không được tưới nước cho cây. Khi thấy phát hoa nhãn đã nhú ra được khoảng 5 cm thì tháo bỏ dây và bắt đầu tưới nước trở lại.
QUI TRÌNH XỬ LÝ RA HOA TRÊN CÂY NHÃN TIÊU DA BÒ
Các giai đoạn của quá trình ra hoa có thể tóm tắt như sau:
– Tỉa cành – Khoanh cành : 60-90 ngày (2-3 cơi đọt)
– Khoanh cành – chuẩn bị nở hoa : 30-35 ngày.
– Ra hoa – Đậu quả : 25-30 ngày.
– Đậu quả – Thu hoạch : 90-105 ngày.
Tổng cộng: Thời gian từ lúc khoanh vỏ đến thu hoạch trái nhãn: 5- 5.5 tháng.
5.8.2. Nhãn xuồng cơm vàng và xuồng cơm trắng:
Nhãn Xuồng cơm vàng, cơm trắng mỗi năm cho một vụ quả. Khi thu hoạch xong cần tỉa cành. Bón phân đầy đủ theo quy trình tại mục 5.7.2, nên phun thuốc ngừa sâu phá hại lá đồng thời kết hợp phun một số loại phân bón lá có hàm lượng NPK, đạm cao như (30-10-10) 10g/8-10 lít nước để nuôi bộ lá đọt cho tốt. Bắt đầu ngưng tưới nước khi lá của đợt đọt thứ 2 trở nên già và bắt đầu cho đợt đọt thứ 3. Đến khi cây vừa nhú hoa thì tiến hành tưới nước trở lại. Trong thời gian ngưng tưới thấy có triệu chứng cây thiếu nước thì có thể tưới nhẹ cho cây.
5.8.3. Nhóm nhãn long, nhãn super:
Một năm có thể cho được 2 vụ: vụ thuận, vụ nghịch.
– Vụ thuận: Khoảng giữa đến cuối tháng 12 hoặc đầu tháng 1 thì tiến hành bón phân, tỉa cành, sửa tán cây, thông thường tỉa đọt (đã thu quả) chỉ để lại 3 đôi lá kép của cành mang quả, có thể phun thêm các loại phân bón lá có hàm lượng NPK, đạm cao như (30-10-10) 10g/8-10 lít nước. Khi lá đọt thứ 2 từ màu đỏ chuyển sang xanh nhạt là thời điểm phát hoa xuất hiện thì tiến hành tưới nước trở lại.
– Vụ nghịch: Sau thu hoạch nhãn vụ chính khoảng tháng 6-7 dương lịch thì tỉa cành và tiến hành bón phân điều khiển cho cây ra một đợt đọt non. Để cho cây ra hoa đồng loạt có thể phun bổ sung thêm các loại phân bón lá có tỉ lệ NPK như sau: 0-52-34; 10-60-10; 6-30-30 với lượng 10g/8-10 lít nước. Sau khi chùm hoa xuất hiện tiến hành tưới nước trở lại.
5.9. Tăng đậu quả, hạn chế rụng quả non
– Tăng đậu quả: Dùng Progibb (GA3) nồng độ 10 ppm hoặc H3 BO3 với 100 ppm phun vào các thời điểm: trước khi cây ra hoa, 30% hoa nở và cây vừa đậu quả sẽ làm tăng tỷ lệ đậu quả.
– Khắc phục rụng quả non: vườn phải trồng cây chắn gió, tưới nước, bón phân đầy đủ, phòng trừ sâu bệnh và phun các chế phẩm chống rụng quả non như:CRT, Thiên nông… phun vào lúc trước khi cây ra hoa, 50% hoa nở và sau đậu quả.
5.10. Bao quả
Dùng lưới, túi chuyên dùng để bao quả hoặc túi nhựa PE có đục những lỗ nhỏ, sao cho nước không đọng ở đáy túi trong quá trình bao quả. Thời điểm bao tốt nhất là trái có đường kính 1cm, chú ý phòng trừ sâu bệnh trước khi bao quả.
6.1. Phòng trừ sâu hại:
6.1.1. Sâu đục gân lá (Acrocercops hierocosma Meyr)
Sâu đục gân lá là loại gây hại quan trọng trên nhãn, sâu non gây hại vào giai đoạn lá non, bằng cách đục ăn vào gân chính của lá, làm cho gân lá bị hư, lá không phát triển được hoặc méo mó. Khi bị gây hại ảnh hưởng đến khả năng phát triển các đợt lộc, làm rụng hoa, rụng quả.
Biện pháp phòng trừ: tỉa cành để các đợt đọt ra tập trung, tạo điều kiện cho ong kí sinh phát triển để hạn chế sâu hại và tiến hành phun thuốc sớm khi cây vừa ra đọt non. Có thể phun các loại thuốc bảo vệ thực vật như: Actara 25 WG 1g/bình 8 lít, Karate 2.5 EC liều lượng 20 ml/ bình 8 lít; Supracide 40 ND10 ml/ bình 8 lít; Match 0.50 ND7-10 ml/ bình 8 lít, Cyper 25 ND 10 ml/ bình 8 lít.
6.1.2. Bọ xít (Tessaratoma papilosa):
Gây hại chủ yếu vào giai đoạn cây ra đọt non, ra hoa, đậu quả. Bọ xít trưởng thành và ấu trùng đều tập trung chích hút làm chết đọt non, rụng hoa, rụng quả, làm chết các cành phát hoa, ảnh hưởng lớn đến năng suất và sinh trưởng của cây.
Biện pháp phòng trừ: cần tỉa cành để các đợt hoa và đợt đọt non ra tập trung, dùng vợt bắt con trưởng thành vào sáng sớm. Các loài thiên địch như kiến vàng, ong kí sinh có thể tấn công trên trứng, cần tạo điều kiện thuận lợi cho ong kí sinh phát triển nhằm hạn chế sự gây hại của bọ xít, đồng thời phun thuốc khi mật độ bọ xít cao, có thể dùng các loại thuốc bảo vệ thực vật như: Supracide 40 ND liều lượng 10 ml/ bình 8 lít; Match 0.50ND liều lượng 10 ml/ bình 8 lít; Alphan 5EC 0,3-0,5lít/ha, Bian 40EC 1-2 lít/ha, Fastac 5 EC 5-7 ml/ bình 8 lít.
6.1.3. Sâu đục trái(Conogethes punctiferalis và Acrocerops cramerella snellen)
Đây là loại gây hại rất quan trọng, ấu trùng gây hại cả giai đoạn quả non đến quả trưởng thành. Khi đục vào bên trong quả làm cho quả bị hư, thối và rụng, cây có quả chùm thường bị gây hại nặng.
Biện pháp phòng trừ: dùng bẩy đèn ánh sáng để bẫy sâu trưởng thành, cắt bỏ những quả bị hại đem tiêu hủy, tỉa quả trên chùm và phun các loại thuốc: Karate 2.5 EC liều lượng 20 ml/ bình 8 lít; Basudin 40EC 1,2-1,8lit/ha Match 0.50 ND7-10 ml/ bình 8 lít.
6.1.4. Kiến vương (Orytic Rhinoceros):
Kiến vương gây hại bằng cách cắn phá quả làm cho quả bị hư hoặc rụng ảnh hưởng đến năng suất cây. Kiến vương gây hại ở giai đoạn trưởng thành, trứng được đẻ dưới đất nơi có nhiều chất hữu cơ hoai mục.
Biện pháp phòng trừ: vệ sinh vườn sạch sẽ, lấp các hố chứa rác, loại trừ các ký chủ trung gian như cây đủng đỉnh (Caryota sp.), chà là (Phoenix sp.), buông (Corypha sp.) trồng cây che chắn hạn chế kiến trưởng thành từ nơi khác bay đến.
6.2. Phòng trừ bệnh hại:
6.2.1. Bệnh đốm rong lá:
Bệnh này do rong Cephaleuros virescens gây bệnh hại khá nghiêm trọng trên lá, nhất là những tháng mưa ẩm, đốm bệnh có hình tròn lúc đầu nhỏ khoảng 3-5 mm hơi nhô lên trên mặt lá, do rong phát triển thành lớp nhung mịn, màu xanh hơi vàng. Đốm bệnh tròn có thể phát triển hơn 1 cm khi đó đốm bệnh có màu nâu, giữa có phấn màu vàng nâu, mặt dưới của vết bệnh có màu nâu nhạt đến sậm. Trên một lá có thể có nhiều đốm làm cho lá bị vàng và rụng sớm.
Phòng trị bệnh bằng phun các loại thuốc như: Score 250 ND liều lượng 3- 5 ml/bình 8 lít ; Tilt super300ND 3-5 ml/ bình 8 lít.
6.2.2. Bệnh đốm bồ hóng:
Bệnh đốm bồ hóng do nấm Meliola sp. gây hại chủ yếu ở mặt dưới lá, đốm bệnh hình hơi tròn với viền không đều, kích thước 1-3 mm, trên bề mặt đốm bệnh màu đen hơi sần sùi, mặt dưới lá có thể có nhiều đốm nhưng thường rời nhau.
Phòng trị bệnh này có thể sử dụng các loại thuốc gốc đồng ở nồng độ 0,2%, Bonaza 5-10 ml/ bình 8 lít, Score 250 ND liều lượng 3- 5 ml/bình 8 lít.
6.2.3. Bệnh khô cháy hoa (do nấm Phyllostista sp. gây ra):
Khi cây bị bệnh, cánh hoa có những vết đen nhỏ bằng đầu kim, hoa bị vàng sau đó khô và rụng. Phòng trị bằng các loại thuốc gốc đồng hoặc Benomyl nồng độ 0.1%, Tilt super 300ND 3-5 ml/ bình 8 lít.
6.2.4. Bệnh phấn trắng (do nấm Oidium sp. gây ra):
Khi cây bị bệnh, hoa bị xoắn vặn, khô cháy, quả non bị nhiễm bệnh quả sẽ nhỏ, có màu nâu, vỏ quả bị đóng phấn trắng, nhất là ở vùng gần cuống. Quả lớn hơn nếu nhiễm bệnh thường bị thối nâu lan dần toàn quả, phần thịt trái bị thối nhũn, chảy nước.
Vườn được cắt tỉa thoáng, ánh sáng mặt trời xuyên qua được tán lá sẽ hạn chế được sự phát triển của bệnh. Phòng trị bệnh bằng các loại thuốc bảo vệ thực vật như: Bayfidan 250 EC; Nustar 40EC; Kumulus DF 80 8-10g/ bình 8 lít.
6.2.5. Bệnh thối trái (do nấm Phytophthora sp. gây ra):
Bệnh xuất hiện và gây hại nặng trên quả nhãn trưởng thành, đặc biệt là trong mùa mưa, bệnh phát triển và lây lan rất nhanh. Quả bệnh thường bị thối nâu, lan dần từ cuống quả xuống phía dưới, thịt quả bị thối nhũn, chảy nước, hơi chua và có thể thấy tơ nấm trắng phát triển trên đó.
Phòng trị bệnh: cắt bỏ và thu gom các quả bệnh bị rơi rụng trong vườn đem đi tiêu hủy, phun các loại thuốc bảo vệ thực vật như: Tilt Super 300 ND 3-5 ml/bình 8 lít; Ridomyl MZ-72 BHN 20-25g/ bình 8 lít; Mataxyl 25WP 20 g/ bình 8 lít; Aliette 80WP 10g/ bình 8 lít.
7.Thu hoạch
Khi thu hoạch dùng kéo cắt cả chùm mang quả.
Dùng bao nilon PE (Poly ethylene) có 15-25 lỗ nhỏ/dm2 để bảo quản nhãn
TIÊU CHUẨN NGÀNH 10TCN 480:2001 VỀ QUY TRÌNH KỸ THUẬT TRỒNG, CHĂM SÓC VÀ THU HOẠCH NHÃN DO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN BAN HÀNH | |||
Số, ký hiệu văn bản | 10TCN480:2001 | Ngày hiệu lực | 05/01/2002 |
Loại văn bản | Tiêu chuẩn Việt Nam | Ngày đăng công báo | |
Lĩnh vực |
Nông nghiệp - Nông thôn |
Ngày ban hành | 21/12/2001 |
Cơ quan ban hành |
Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn |
Tình trạng | Không xác định |
Các văn bản liên kết
Văn bản được hướng dẫn | Văn bản hướng dẫn | ||
Văn bản được hợp nhất | Văn bản hợp nhất | ||
Văn bản bị sửa đổi, bổ sung | Văn bản sửa đổi, bổ sung | ||
Văn bản bị đính chính | Văn bản đính chính | ||
Văn bản bị thay thế | Văn bản thay thế | ||
Văn bản được dẫn chiếu | Văn bản căn cứ |