TIÊU CHUẨN QUỐC GIA TCVN 9946-1:2013 (ISO/TR 8550-1:2007) VỀ HƯỚNG DẪN LỰA CHỌN VÀ SỬ DỤNG HỆ THỐNG LẤY MẪU CHẤP NHẬN ĐỂ KIỂM TRA CÁC CÁ THỂ ĐƠN CHIẾC TRONG LÔ – PHẦN 1: LẤY MẪU CHẤP NHẬN

Hiệu lực: Còn hiệu lực

TIÊU CHUẨN QUỐC GIA

TCVN 9946-1:2013

ISO/TR 8550-1:2007

HƯỚNG DẪN LỰA CHỌN VÀ SỬ DỤNG – HỆ THỐNG LẤY MẪU CHẤP NHẬN ĐỂ KIỂM TRA CÁC CÁ THỂ ĐƠN CHIẾC TRONG LÔ – PHẦN 1: LẤY MẪU CHẤP NHẬN

Guidance on the selection and usage of acceptance sampling systems for inspection of discrete items in lots – Part 1: Acceptance sampling

Lời nói đầu

TCVN 9946-1:2013 hoàn toàn tương đương với ISO/TR 8550-1:2007;

TCVN 9946-1:2013 do Ban kỹ thuật tiêu chuẩn quốc gia TCVN/TC 69 ng dụng các phương pháp thống kê biên soạn, Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng đề nghị, Bộ Khoa học và Công nghệ công bố.

Bộ tiêu chuẩn TCVN 9946, chấp nhận bộ tiêu chun ISO/TR 8550, gồm các tiêu chuẩn dưi đây có tên chung “Hướng dẫn lựa chọn và sử dụng hệ thống lấy mẫu chấp nhận để kiểm tra các cá th đơn chiếc trong lô”:

– TCVN 9946-1:2013 (ISO/TR 8550-1:2007), Phần 1: Lấy mẫu chấp nhận;

– TCVN 9946-2:2013 (ISO/TR 8550-2:2007), Phần 2: Lấy mẫu định tính;

– TCVN 9946-3:2013 (ISO/TR 8550-3:2007), Phần 3: Lấy mẫu định lượng.

Lời giới thiệu

Tiêu chuẩn này đưa ra hướng dẫn lựa chọn chương trình lấy mẫu chấp nhận thích hợp đ kim tra các cá th đơn chiếc trong lô giao nộp trong số các chương trình mô tả trong các tiêu chuẩn quốc gia và tiêu chuẩn quốc tế.

Có nhiều tình huống mà sản phẩm (vật liệu, bộ phận, linh kiện, cụm lắp ráp và hệ thống) được chuyển từ tổ chức này đến t chức khác trong đó các tổ chức có th là các công ty hoặc bộ phận khác nhau trong một công ty hoặc thậm chí là các xưng khác nhau trong một nhà máy. Trong những tình huống này cả nhà cung cp và khách hàng có thể sử dụng các quy trình lấy mẫu chấp nhận đáp ứng yêu cầu là sản phẩm có cht lượng chấp nhận. Nhà cung cấp sẽ mong muốn duy trì uy tín về cht lượng tốt và giảm khả năng yêu cầu bo hành đồng thời không phát sinh các chi phí sản xuất và cung ứng không cần thiết. Mặt khác, khách hàng sẽ đòi hỏi bằng chứng thích đáng,  mức chi phí tối thiểu, rằng sản phẩm mà họ tiếp nhận tuân th các quy định kỹ thuật. Nghĩa là, so với kiểm tra 100 %, các phương pháp lấy mẫu phù hợp sẽ thường mang lại lợi ích trong việc đạt được những mục đích này. Đôi khi phương án lấy mẫu chấp nhận là quy trình khả thi duy nhất, đặc biệt là trong trường hợp phép th sự phù hợp là phép thử phá hủy.

Hiện có nhiều loại hệ thống, chương trình và phương án lấy mẫu cho mục đích này. Chúng được trình bày trong nhiều tiêu chun, trong đó gii thích cách thức sử dụng chúng. Tuy nhiên, trong tình huống cụ th, thường khó quyết định quy trình thích hợp nhất để sử dụng. Mục đích của tiêu chun này là hỗ trợ việc đưa ra quyết định này.

Việc lựa chọn hệ thống, chương trình hay phương án lấy mẫu phụ thuộc vào nhiều điều kiện cũng như hoàn cảnh chiếm ưu thế. Trong bất kỳ tình huống cung cấp nào, điều thiết yếu trước tiên là nhà cung cấp và khách hàng thông hiểu và thống nhất về các yêu cầu cũng như cơ sở thông qua và chấp nhận sản phẩm, bao gồm c các phương pháp lấy mẫu chấp nhận bt kỳ được sử dụng.

Các lô không chấp nhận được gây khó khăn cho cả nhà cung cp lẫn khách hàng. Nhà cung cp phát sinh thêm chi phí cho việc làm lại, thi loại, tăng chi phí kiểm tra, hủy hoại danh tiếng và có khả năng tổn thất doanh thu. Sự chậm trễ trong giao hàng và các chi phí tái kiểm tra là gánh nặng cho khách hàng. Vì những lý do này, thông thường, điều thiết yếu đối với nhà cung cấp là đưa ra những lô hàng có xác suất được chấp nhận rất cao, nghĩa là 95 % hoặc cao hơn. Nhà cung cấp phi đm bảo rng việc kim soát chất lượng của quá trình sản xuất hay giao hàng cung cấp những lô hàng có chất lượng đủ đ đáp ứng mục tiêu này. Nguyên tắc cơ bản của một số chương trình kiểm tra lấy mẫu chấp nhận là đy mạnh việc sản xuất các lô hàng có chất lượng chp nhận. Mục đích chính của các chương trình này là không phân biệt giữa những lô chấp nhận được và không chấp nhận được, nghĩa là phân loại, mà phải duy trì việc kiểm soát sản xuất để có được chất lượng trung bình quá trình là chấp nhận được. Mặc dù tất cả các phương án lấy mẫu chp nhận đều có sự phân biệt  mức độ nhất định, nhưng chất lượng trung bình quá trình (tính bằng phần trăm không phù hợp hoặc số lượng không phù hợp) không được lớn hơn một nửa giới hạn chất lượng chấp nhận nhằm đảm bảo xác suất chấp nhận rất cao.

Mục đích chính của bộ tiêu chuẩn TCVN 9946 (ISO/TR 8550) là đưa ra hướng dẫn cho việc lựa chọn hệ thống, chương trình hoặc phương án lấy mẫu chấp nhận. Bộ tiêu chuẩn thực hiện điều này chủ yếu thông qua việc xem xét các hệ thống sẵn có đã quy định trong nhiều tiêu chun khác nhau và ch ra những cách thức so sánh giữa chúng để đánh giá sự phù hợp cho ứng dụng dự kiến. Hướng dẫn cũng chỉ ra việc hiểu biết trước về quá trình chế tạo hoặc chuyển giao dịch vụ và hiệu năng về chất lượng có thể ảnh hưởng như thế nào đến việc lựa chọn hệ thống, chương trình hoặc phương án, cũng như những nhu cầu cụ th của khách hàng có thể ảnh hưởng như thế nào đến việc lựa chọn. Một số trường hợp cụ th gặp phải trong thực tế được mô t và phương pháp lựa chọn phương án cũng được giải thích. Một số danh mục kiểm tra hoặc các gợi ý và bảng biểu được cung cấp đ hỗ trợ người sử dụng trong việc lựa chọn hệ thống, chương trình hoặc phương án phù hợp với mục đích của mình. Các đồ thị được đưa ra đ minh họa cho các quy trình cần tuân th trong quá trình lựa chọn.

Tiêu chuẩn này không có ý đưa vào tất cả các điu khon cần thiết của hợp đồng. Người sử dụng chịu trách nhiệm đối với việc áp dụng đúng tiêu chuẩn.

 

HƯỚNG DẪN LỰA CHỌN VÀ SỬ DỤNG HỆ THỐNG LẤY MẪU CHẤP NHẬN ĐỂ KIỂM TRA CÁC CÁ THỂ ĐƠN CHIẾC TRONG LÔ – PHẦN 1: LẤY MẪU CHẤP NHẬN

Guidance on the selection and usage of acceptance sampling systems for inspection of discrete items in lots – Part 1: Acceptance sampling

1. Phạm vi áp dụng

Tiêu chuẩn này đưa ra hướng dẫn chung về việc lựa chọn hệ thống, chương trình hay phương án lấy mẫu chấp nhận. Điều này được thực hiện chủ yếu trong bối cảnh các tiêu chuẩn hiện hành hoặc đang được xây dựng. [Thông tin chi tiết hơn về các hệ thống lấy mẫu chấp nhận, xem TCVN 9946-2 (ISO/TR 8550-2) về lấy mẫu định tính hoặc TCVN 9946-3 (ISO/TR 8550-3) về lấy mẫu định lượng.]

Hướng dn trong tiêu chuẩn này được giới hạn  lấy mẫu chấp nhận các sản phẩm được cung cấp theo lô và có th được phân loại là gồm các cá th đơn chiếc (nghĩa là các vật phẩm đơn chiếc). Giả định rằng mỗi cá th trong lô có thể được xác định và phân biệt với các cá thể khác trong lô đó và có khả năng được lấy mẫu như nhau. Mỗi cá th sản phẩm có th đếm được và có các đặc trưng cụ thể đo lường được hoặc phân loại được là phù hợp hay không phù hợp (với một quy đnh kỹ thuật sản phẩm nhất định).

Các tiêu chuẩn về lấy mẫu chấp nhận thường tổng quát nên chúng có th áp dụng cho nhiều trường hợp kim tra khác nhau như:

– cá th cuối, như thành phẩm hoặc cụm lắp ráp con;

– thành phần và nguyên liệu thô;

– dịch vụ;

– vật liệu trong quá trình;

– hàng dự trữ trong kho;

– hoạt động bảo dưỡng;

– dữ liệu hay hồ sơ;

– các thủ tục quản lý, …

Mặc dù tiêu chuẩn này được biên soạn ch yếu về sản xuất và chế tạo nhưng nó cần được diễn giải một cách tự do, vì nó có th áp dụng cho việc lựa chọn hệ thống, chương trình hoặc phương án lấy mẫu dùng cho mọi loại sản phẩm và quá trình như được xác định trong TCVN ISO 9000 (ISO 9000).

2. Tài liệu viện dẫn

Các tài liệu viện dẫn trong tiêu chuẩn này rất cần thiết cho việc áp dụng tiêu chuẩn. Đối với các tài liệu có ghi năm công bố thì áp dụng bản được nêu. Đối với các tài liệu không ghi năm công bố thì áp dụng phiên bản mới nhất, bao gồm c các sửa đổi.

TCVN 8244-1 (ISO 3534-1), Thống kê hc – Từ vựng và ký hiệu – Phần 1: Thuật ngữ chung về xác suất và thống kê

TCVN 8244-2 (ISO 3534-2), Thống kê hc – Từ vựng và ký hiệu – Phần 2: Thống kê ứng dụng TCVN ISO 9000 (ISO 9000), Hệ thống quản lý chất lượng – Cơ sở và từ vựng

3. Thuật ngữ và định nghĩa

Tiêu chuẩn này áp dụng các thuật ngữ và định nghĩa trong TCVN 8244-1 (ISO 3534-1), TCVN 8244-2 (ISO 3534-2) và TCVN ISO 9000 (ISO 9000).

4. Lạm dụng và sử dụng lấy mẫu chấp nhận

4.1. Lạm dụng lấy mu chấp nhận

Lấy mẫu chấp nhận tr nên không phổ biến kể từ đầu những năm 1980. Một số lý do cho điều này (mặc dù không phải là tất cả) đã được tìm ra, vì vậy điều quan trọng là có th phân biệt những tình huống không nên sử dng lấy mẫu chấp nhận với những tình huống có thể thích hợp để sử dụng.

Những lý lẽ chính sử dụng đ phn đối việc sử dụng lấy mẫu chấp nhận được nêu dưới đây.

a) Khi chất lượng nói chung rất cao thì c mẫu cần thiết để phát hiện sụt giảm chất lượng lại lớn một cách lãng phí.

b) Không th kiểm tra chất lượng trong một sản phm.

c) Sẽ tốt hơn nhiều nếu thiết lập thiết kế ổn định và thực thi kiểm soát quá trình toàn diện so với việc cố gắng phát hiện và loại b các cá thể không phù hợp sau khi sản xuất.

d) Hầu hết các tiêu chuẩn lấy mẫu chp nhận được xác định theo mức chất lượng chấp nhận (AQL). Khi AQL được thiết lập và chất lượng đ thấp hơn AQL đ đạt được xác suất chấp nhận lô cao thì không còn khuyến khích được nhà sản xuất cố gắng tiếp tục cải tiến chất lượng.

e) Đưa ra AQL tương đương với việc cấp phép cho việc tạo ra khuyết tật.

f) Mức cht lượng chấp nhận duy nht là không có khuyết tật.

Những lý lẽ này lần lượt được kim chứng trong các điều dưới đây.

4.2. Ví dụ 1

Ví dụ đơn giản hóa sau đây, do Baillie [18] đưa ra, chứng t phương án lấy mẫu tối ưu có th thay đổi như thế nào theo mức chất lượng dựa vào đó để mong muốn duy trì. Cá thể nào đó được tạo ra trong lô có cỡ 10 000, với chi phí sản xuất đơn vị là £10,000. Theo quy trình chấp nhận, giá bán trên một cá th là £a trong các  được chấp nhận và  mức giá giảm £0,50 trong các lô không được chấp nhận. Thử nghiệm là phá hủy và chi phí thử mỗi cá thể là £1,00. Chi phí phía bán (ví dụ chi phí bo hành cộng với mất tín nhiệm) của cá thể không phù hợp trong lô được chp nhận là £10 000, và bằng “không” trong lô không được chấp nhận và bị bán giảm giá. Dữ liệu trước đây cho thấy rằng tỷ lệ không phù hợp của quá trình là p đối với 99 % các lô, nhưng nó sụt giảm ngẫu nhiên và không giải trình được đến 100p đối với 1 % các lô. Phương án lấy mẫu định tính một lần được sử dụng, nghĩa là mẫu ngẫu nhiên cỡ n được chọn từ mỗi lô và lô được xem là chấp nhận được nếu mẫu chứa không quá Ac cá thể không phù hợp. Phương án lấy mẫu tối ưu, nghĩa là phương án giúp tối đa hóa lợi nhuận trên một cá thể bán ra là gì?

Chi tiết tính toán được nêu trong Phụ lục A đ tham khảo. Bảng 1 thể hiện phương án lấy mẫu tối ưu cho một dãy giá trị mức chất lượng quá trình p. Các kết quả đ cung cấp thông tin.

Bng 1 – Các phương án lấy mẫu tối ưu cho Ví dụ 1

Mức chất lượng thông thường, phn trăm không phù hợp

Mức cht lượng sau sụt giảm, phần trăm không phù hp

Phương án tối ưu

Giá bán trên một cá tha

(£)

Li nhuận trung bình trên một cá thể bán ra, a (£)

Cỡ mẫu
n

Số chấp nhận,
Ac

0,001 00

0,100

104

2

20,25

0,022

0,000 50

0,050

139

1

15,40

0,091

0,000 30

0,030

197

1

13,60

0,211

0,000 20

0,020

249

1

12,75

0,280

0,000 10

0,010

141

0

12,00

0,378

0,000 09

0,009

137

0

11,95

0,436

0,000 08

0,008

129

0

11,90

0,499

0,000 07

0,007

113

0

11,85

0,570

0,000 06

0,006

86

0

11,75

0,603

0,000 05

0,005

34

0

11,70

0,710

0,000 04

0,004

Chấp nhận mà không lấy mu

11,60

0,804

0,000 03

0,003

Chấp nhận mà không lấy mẫu

11,50

0,903

0,000 02

0,002

Chấp nhn mà không lấy mẫu

11,35

0,952

0,000 01

0,001

Chp nhận mà không ly mẫu

11,20

1,001

Không ngạc nhiên khi thấy rằng những cải tiến v mức chất lượng cho phép giảm giá bán đồng thời làm tăng lợi nhuận trên một cá thể bán ra. Trước tiên, cải tiến mức chất lượng đòi hi các c mẫu lớn hơn đ có th tạo ra sự phân biệt cần thiết giữa hai mức chất lượng. Khi mức cht lượng ci thiện, số chấp nhận Ac tối ưu giảm và sẽ tới lúc khi cỡ mẫu được yêu cầu cũng bắt đầu giảm cho đến khi, cuối cùng, nó tr nên lãng phí khi không ly mu. Trạng thái cuối cùng này được gọi là “kiểm tra gián tiếp” vì việc kiểm tra được chuyn một cách hiệu quả từ nhà sản xuất sang người tiêu dùng; các cá thể không phù hợp hiếm đến mức sẽ tiết kiệm hơn nếu không lấy mẫu và việc kim tra được chuyển cho người tiêu dùng trên cơ sở không thường xuyên rằng họ được yêu cầu bảo hành cho những trường hợp hãn hữu xảy ra. Vì vậy, 4.1a) bị hiểu nhầm là, khi mức chất lượng đạt đến mức đủ cao, việc lấy mẫu chấp nhận ch tr thành một phí tổn không cần thiết chứ không phải yêu cầu cỡ mẫu lớn là lãng phí.

4.3. Kiểm tra chất lưng vào sản phẩm

Việc kiểm tra tạo khác biệt nh cho chất lượng đầu ra nếu chất lượng đầu vào ít nhiều không thay đổi trừ khi c mẫu là một phần lớn cỡ lô, khi đó quá trình kiểm tra sẽ gây phí tổn lớn. Nói cách khác, đó không phải là một cách tiếp cận nhạy bén đặc biệt để cải tiến mức chất lượng.

4.4. Thiết kế và kiểm soát

Việc thiết lập thiết kế ổn định và hệ thống kim soát quá trình toàn diện có rất nhiều ưu điểm. Thiết kế ổn định đặt ra ít yêu cầu nhất đối với quá trình sản xuất và hệ thống kiểm soát quá trình có xu hướng ngăn ngừa các tham số quá trình trượt quá xa khỏi giá trị mục tiêu của chúng, vì vậy độ biến động quá trình và lãng phí được duy trì ở mức thấp và chất lượng đầu ra  mức cao. Hơn nữa, thiết kế và hệ thống kiểm soát quá trình sản xuất có thể được xem xét và cải tiến trên quan điểm kinh nghiệm nhằm đưa ra ci tiến chất lượng liên tục.

4.5. AQL

Chữ viết tắt AQL nghĩa là mức chất lượng chấp nhận, mặc dù trên thực tế AQL đơn thuần là một chỉ số cho phương án lấy mẫu. Các tiêu chuẩn cố gắng làm rõ điều này bằng cách giải thích rằng mức được chấp nhận cho mục đích lấy mẫu chấp nhận (hơn là theo nghĩa tuyệt đối). Thực vậy, mức cht lượng của lô thường tốt hơn một nửa AQL đ có khả năng được chấp nhận rất cao.

Vào cuối thế kỷ 20, nhiều công ty thừa nhận rng cách duy nhất đ tồn tại trong thị trường toàn cầu là phấn đấu không ngừng cho mức chất lượng cải tiến. Ý niệm là mức chất lượng bất kỳ ngoài khuyết tật “không” (xem 4.7) được chấp nhận bắt đầu không được coi trọng. Để làm rõ tình huống này, ý nghĩa của chữ viết tắt AQL đã thay được thay đổi trong các tiêu chuẩn thành giới hạn chất lượng chp nhận, ý nghĩa này mô tả chính xác hơn chức năng của nó. Thiệt hại không may là nhiu tổ chức không còn muốn sử dụng các tiêu chuẩn xác định theo AQL nữa.

Lập luận răng AQL không khuyến khích nhà sản xuất liên tục cải tiến chất lượng khi nó đã được cải tiến đến mức tốt hơn AQL không phải là một lập luận chắc chắn; trong nhiều thỏa thuận trung hạn và dài hạn giữa nhà cung cấp và khách hàng, việc giảm dần AQL có thể dễ dàng thống nhất và ghi trong hợp đồng. Hơn nữa, nhà sản xuất mong muốn tiếp tục công việc đã cố gắng hướng đến mức chất lượng tốt hơn nhằm duy trì hoặc ci thiện v thế của mình trên thị trường quốc gia hoặc toàn cầu.

4.6. Cấp phép để tạo ra khuyết tật?

Không nên hiểu là AQL cho phép nhà sản xuất tạo ra khuyết tật. Hầu hết các tiêu chuẩn xác định theo AQL đều cnh báo rõ rằng việc ấn định AQL không hàm ý là nhà cung cp có quyền cố ý cung cấp bất kỳ một cá thể sản phẩm không phù hợp nào.

4.7. Triết lý khuyết tật bằng “không”

Crosby [19] đưa ra ý tưng là chất lượng có th cho không, nghĩa là những nguồn lực bổ sung sử dụng để cải tiến cht lượng thường được bù đắp lại nhiều hơn nhờ việc giảm làm lại hoặc thải loại hay mất tín nhiệm. Không may là ý tưng tương ứng là nhà sản xuất nên phấn đấu cho một quá trình hoàn hảo không tạo ra những cá thể không phù hợp thường bị hiểu sai để đặt điều kiện là phương án lấy mẫu chấp nhận cần phải luôn có số chấp nhận bằng “không”, nghĩa là các phương án cần dẫn đến không chấp nhận lô nếu một hoặc nhiều cá thể không phù hợp được tìm thấy trong mẫu. Ví dụ 1 cho thy điều này không phải là một hệ qu tất yếu. Số chp nhận bng không được xem là tối ưu ch trong một dải mức chất lượng nht định;  mức chất lượng kém hơn, số chấp nhận bằng 1 hoặc lớn hơn là tối ưu, trong khi  các mức chất lượng tốt hơn thì tốt nhất là không cần lấy mẫu.

4.8. Sử dụng lấy mẫu chấp nhận

Đối với nhiều quá trình sản xuất thuần thục, mức chất lượng sẽ tr nên gần như hoàn hảo tới mức không cần thiết lãng phí nguồn lực để thực thi các quy trình lấy mẫu chấp nhận. Thiết kế sẽ được tinh lọc đ không có khó khăn gì trong quá trình sản xuất do khó đạt được hay duy trì bất kỳ tham số quá trình nào, và trong hệ thống kim soát quá trình sẽ thiết lập những bảo đảm bất cứ nơi nào cần thiết.

Có th thy từ Bảng 1 là ly mẫu chấp nhận tr nên thừa  mức chất lượng nằm trong khoảng không phù hợp từ 0,000 1 đến 0,000 2. Một trong các biến trong Ví dụ 1 là 1 % các lô sụt giảm xuống mức chất lượng kém hơn. Nếu phần trăm này có thể được giảm đáng kể thì lấy mẫu chấp nhận sẽ trở nên thừa  những mức chất lượng trong các lô tốt có tỷ lệ không phù hợp thấp hơn 0,000 2. Vì vậy, thâm nhập theo hai hướng lên độ biến động bên trong và bên ngoài, “nguyên nhân đặc biệt” của độ biến động trong quá trình sản xuất, cùng với những xem xét lặp lại về thiết kế sản xuất, cuối cùng dẫn đến việc lấy mẫu chấp nhận tr nên không cần thiết đối với nhiều sản phẩm.

Tuy nhiên, những giai đoạn đầu trong khi quá trình và việc kiểm soát quá trình đang được thanh lọc thì thế nào? Ví dụ 1 chứng minh rằng việc sử dụng lấy mẫu chấp nhận phù hợp có th đóng một phần quan trọng trong việc tối ưu hóa lợi nhuận trong giai đoạn chuyển tiếp này.

Một số quá trình không đ dài để trở thành thuần thục. Điều này đặc biệt đúng với một số ngành công nghiệp quốc phòng. Không có nhiều dp đ liên tục xây dựng vũ khí tấn công theo một quy định kỹ thuật cho trước một khi sự phòng vệ hiệu quả đã được đưa ra và phổ biến rộng rãi. Vì vậy, các quy định kỹ thuật được sửa đi thường xuyên có th gây khó khăn cho việc có được thiết kế ổn định hoặc kiểm soát quá trình hiệu quả. Đôi khi, vật liệu sử dụng trong sản xuất vũ khí mới đến mức chúng có các tính chất và giới hạn không thể hiểu được hoàn toàn. Đôi khi, trong việc lắp ráp các linh kiện âm thanh đơn lẻ thành các cá thể phức tạp có th cần sử dụng lấy mẫu chấp nhận để duy trì chất lượng; sẽ là quá muộn khi các cá thể được sử dụng trong khi tức giận. Đôi khi những gì có vẻ như ở mức không phù hợp rất cao lại có th được chấp nhận. Ví dụ, hệ thống vũ khí chống tăng vác trên vai có khả năng được chấp nhận cao hơn ngay cả khi nó ch có 50 % cơ hội phá hủy xe tăng trị giá nhiều hơn gấp một ngàn lần, mặc dù điều này được hiểu là 50 % không phù hợp. Lấy mẫu chấp nhận có thể được áp dng định kỳ cho đạn dược lưu kho trong nhiều năm, đ kiểm tra xem chúng không bị xuống cp đến mức không chấp nhận được. Trong ngành công nghiệp máy tính, quá trình đạt thấp tới 50 % khi khắc chip máy tính mới nhất và nhanh nhất có thể được coi là chấp nhận được. Lấy mẫu chp nhận thậm chí có th được sử dụng như một công cụ thông qua đó để kiểm tra xác nhận các kết quả kiểm soát quá trình thống kê.

Tóm lại, lấy mẫu chấp nhận đóng một phần xác đáng trong việc đảm bảo chất lượng của nhiều sn phẩm.

5. Phương án, chương trình và hệ thống lấy mẫu chấp nhận

Phương án lấy mẫu chấp nhận là thiết lập các quy tắc thông qua đó lô được kiểm tra và xác định khả năng chấp nhận. Phương án quy định số lượng cá thể (đơn vị) trong mẫu, được ly ngẫu nhiên từ  để kiểm tra theo quy định kỹ thuật của sn phẩm. Sau đó, lô được tuyên bố là “được chấp nhận” hoặc “không được chấp nhận” theo các kết quả kiểm tra so với các chuẩn mực của phương án lấy mẫu chp nhận.

Khi một loạt nhiều lô được kiểm tra, đôi khi, quy trình lấy mẫu có th yêu cầu chuyển đổi từ phương án lấy mẫu này sang phương án khác, tùy thuộc vào kết quả lấy mẫu hiện tại và trước đó. Các quy trình lấy mẫu trong đó đòi hỏi việc chuyển đi từ phương án ly mẫu này sang phương án khác, và có th là chuyển ngược lại, được gọi là chương trình lấy mẫu. Chương trình lấy mẫu cũng có th yêu cầu gián đoạn việc kim tra nếu chất lượng sn phẩm dường như vẫn còn kém. Khi đó, khách hàng có th chuyển sang nhà cung cấp khác, nếu có, hoặc bắt đầu kim tra 100 % cho đến khi nhà cung cấp có thể cải tiến quá trình sản xuất đủ để tạo ra sản phẩm chấp nhận được.

Trong trường hợp phép thử phá hủy, khách hàng có th ngừng chấp nhận sản phm cho đến khi nhà cung cp chứng minh thỏa đáng được rằng các vấn đề sản xuất làm nảy sinh cht lượng thấp trước đó đã được khắc phục.

Tập hợp các phương án lấy mẫu và các chương trình lấy mẫu liên quan tạo thành hệ thống lấy mẫu Hệ thống này thường được xác định theo cách thức nhất định, ví dụ theo cỡ lô, mức kiểm tra và giới hạn chất lượng chp nhận [ví dụ TCVN 7790-1 (ISO 2859-1)].

Các tiêu chuẩn xem xét trong TCVN 9946-2 (ISO/TR 8550-2) và TCVN 9946-3 (ISO/TR 8550-3) trình bày các phương án lấy mẫu một lần, hai lần, nhiều lần hoặc liên tiếp. Các quy trình ly mẫu lô cách quãng đ kiểm tra định tính được đề cập trong TCVN 7790-3 (ISO 2859-3). Sự so sánh giữa các phương pháp lấy mẫu khác nhau và các nguyên tắc làm cơ sở cho phương án lấy mẫu sẽ hỗ trợ cho việc đánh giá tính thích hợp cho một ứng dụng cụ thể và cho phép đưa ra lựa chọn phù hợp.

6. Ưu điểm thực tế và kinh tế của việc sử dụng phương án lấy mẫu tiêu chuẩn

Đối với những người tham gia vào việc viết các quy định kỹ thuật thì việc được cung cấp các quy trình lấy mẫu hợp lý về mặt thống kê sẽ rất hữu ích. Vì đối với các lô lớn hơn sẽ tiết kiệm hơn nên hầu hết các chương trình lấy mẫu trình bày trong các tiêu chuẩn được đề cập trong TCVN 9946-2 (ISO/TR 8550-2) và TCVN 9946-3 (ISO/TR 8550-3) đều liên hệ c mẫu với c lô. Ngoài việc cung cấp việc kim soát cho các phương pháp lựa chọn mẫu, các tiêu chuẩn này nên được tham khảo vì chúng quy đnh các yêu cầu kim soát việc xử lý những sự không phù hợp được phát hiện trong quá trình kiểm tra và xử lý những lô được giao nộp lại sau khi không được chấp nhận ban đầu. Ngoài ra, hầu hết các hệ thống lấy mẫu này có các nguyên tắc chuyển đi lập sẵn (ví dụ như từ kiểm tra “thường” sang kiểm tra “ngặt” hoặc “giảm”) để điều chỉnh phương án lấy mẫu trong trường hợp có sự suy giảm hay cải thiện về chất lượng. Việc sử dụng các tiêu chuẩn tham khảo cơ bản này có thể tiết kiệm phần lớn thời gian thường bị lãng phí cho việc tranh luận ch quan và giảm bớt các quyết định tùy tiện có trong các chương trình ly mẫu phi tiêu chuẩn ch có giá tr hạn chế, đặc biệt đối với thương mại quốc tế.

Việc lấy mẫu có rủi ro và, hoàn toàn tự nhiên, tt cả các bên liên quan đều cố gắng giảm thiểu phần của mình. Theo lý thuyết, những rủi ro này là hàm số của phương án lấy mẫu và mức chất lượng được thỏa thuận, không liên quan đến ngành công nghiệp hay sản phẩm. Trên thực tế, những rủi ro này được giảm thiểu bằng cách kiểm soát quá trình sản xuất và cải tiến mức chất lượng.

Không thể loại trừ những rủi ro này nhưng chúng có th được tính toán chính xác và đánh giá một cách kinh tế nhờ sử dụng các kỹ thuật thống kê hiện đại. Kết quả là tất cả các bên đều có lợi khi các chun mực chấp nhận bền vững về mặt thống kê được quy định trong các quy định kỹ thuật của sản phẩm/quá trình và, bất cứ khi nào có th, các tiêu chuẩn tham khảo cơ bản áp dụng chung về lấy mẫu, ví dụ như bộ tiêu chuẩn TCVN 7790 (ISO 2859) và TCVN 8243 (ISO 3951) được sử dụng.

Nói chung, khi đạt đến hiệu năng tối ưu của phương án hay chương trình lấy mẫu chấp nhận, thì chi phí cho việc ngăn ngừa sự không phù hợp cần được cân đối với xác suất sai lỗi trong hoạt động. Theo nhiều gi định khác nhau được đặt ra về tỷ lệ cỡ mẫu và c lô (n/N) và theo lý thuyết phân bố thích hợp, vấn đ tương đối đơn gin là thiết lập phương án lấy mẫu từ lý thuyết thống kê. Lưu ý là trong khi các tiêu chuẩn hiện hành về lấy mẫu định lượng ch áp dụng cho các đặc trưng sn phẩm có phân bố chuẩn thì các tiêu chun về lấy mẫu định tính không phụ thuộc vào dạng phân bố của đặc trưng sản phẩm.

Việc xây dựng các tiêu chuẩn lấy mẫu chấp nhn chung là một vn đề khó khăn hơn. Có những ưu điểm không thể phủ nhận khi có tương đối ít các chương trình tiêu chuẩn, vì điều này dẫn đến sự đồng nhất cao hơn trong hành động và đơn giản hóa các thủ tục quản lý trong phạm vi tổ chức và quốc gia. Tuy nhiên, đ ngành công nghiệp toàn cầu chấp nhận sử dụng các tiêu chuẩn này thì các tiêu chuẩn lấy mẫu phải khả thi và đủ tính hoạt để có th tính đến nhiều tình huống khác nhau gặp phải trong thực tế. Các quy trình xác định theo AQL đề cập trong bộ tiêu chuẩn TCVN 7790 (ISO 2859) và TCVN 8243 (ISO 3951) cũng như trong các tiêu chuẩn quốc tế tương ứng đã phục vụ tốt cho công nghiệp trong quá khứ và đang tiếp tục được xây dựng đ đáp ứng nhu cầu hiện tại và tương lai.

Động cơ cho lấy mẫu chấp nhận ch yếu là về kinh tế: việc kiểm tra mẫu lấy từ lô là chi phí (thường nh) phải tr để đạt được chất lượng mong muốn trong lô được chấp nhận. Chất lượng này đạt được thông qua hai áp lực:

1) áp lực thống kê đơn thuần của xác suất chấp nhận khác nhau các lô có chất lượng tốt và kém;

2) khi loạt các lô được mua, áp lực thương mại của những lô thường xuyên không được chp nhận và chuyển sang kiểm tra ngặt hoặc gián đoạn việc kiểm tra khi chất lượng kém.

Vấn đề khó khăn đi kèm với kiểm tra lấy mẫu chấp nhận liên quan đến việc xác định không rõ ràng các chuẩn mực sử dụng đ đánh giá các cá thể riêng lẻ dạng đơn chiếc được cung cấp hàng loạt, chuẩn mực chấp nhận lô, mức cht lượng mong đợi từ quá trình sản xuất, sự phân biệt mà phương án ly mẫu tạo ra và các quy tắc cần tuân th khi lô không được chấp nhận. Tuy nhiên, trên hết là cần thiết kế chương trình lấy mẫu sao cho có th dễ dàng viện dẫn trong hợp đồng mua hàng. Phương án lấy mẫu trong các bộ tiêu chuẩn liên quan đề cập trong TCVN 9946-2 (ISO/TR 8550-2) và TCVN 9946-3 (ISO/TR 8550-3) cho phép thực hiện hiệu quả việc này.

Các bên cần thống nhất về:

a) quy định kỹ thuật mà cá thể sn phẩm dạng đơn chiếc cần tuân thủ; điều này là cần thiết vì, trong tất c những quan hệ giao dịch giữa các bên, phải có sự thỏa thuận về những gì cấu thành một cá thể phù hợp và những gì tạo nên cá thể không phù hợp;

b) việc chp nhận sản phẩm được xác định thông qua chấp nhận các cá thể đơn l hay chung bng việc chp nhận lô cá thể kiểm tra (chp nhận cá thể đơn l loại bỏ việc lấy mẫu).

Khi việc chấp nhận dựa trên cơ sở lô, thỏa thuận giữa nhà cung cấp và bên tiếp nhận cần bao gồm:

– chuẩn mực sự phù hợp của cá thể,

– chuẩn mực chấp nhận lô,

– chuẩn mực không chấp nhận lô, và

– hệ thống, chương trình hoặc phương án lấy mẫu chấp nhận được sử dụng.

Yếu tố đề cập sau cần dựa trên hệ số rủi ro được cả nhà sản xuất và khách hàng chấp nhận.

Với sự thống nhất về hệ thống, chương trình hoặc phương án ly mẫu chấp nhận để sử dụng, nhà cung cấp biết, đối với các mức chất lượng khác nhau, xác suất cung cấp các lô sẽ được chấp nhận.

Tương tự như vậy, khách hàng thông hiểu về sự bảo đảm của hệ thống, chương trình hoặc phương án lấy mẫu đối với việc chấp nhận sản phẩm chất lượng kém.

Các tiêu chuẩn hiện tại đưa ra các phương án lấy mẫu một lần, hai lần, nhiều lần, liên tiếp và lấy mẫu lô cách quãng. Việc so sánh giữa các phương pháp lấy mẫu khác nhau và các nguyên tắc làm cơ sở cho phương án đó sẽ hỗ trợ việc đánh giá tính thích hợp của chúng đối với ứng dụng cụ thể và cho phép đưa ra lựa chọn phù hợp.

7. Định tính và định lượng

Các tiêu chuẩn lấy mẫu chấp nhận thường mô tả quy trình kiểm tra định tính hoặc kiểm tra định lượng; quyết định quan trọng cn đưa ra là sử dụng loại nào.

Nếu những giả định nhất định là đúng thì phương pháp định lượng có ưu điểm là thường đòi hi c mẫu nh hơn so với phương pháp định tính để đạt được cp độ bảo vệ cho trước tránh các quyết định sai. Ngoài ra, nó cung cấp nhiều thông tin hơn về việc chất lượng có bị ảnh hưởng bất lợi bi trung bình quá trình, độ biến động quá trình hay cả hai.

Phương pháp định tính có ưu điểm là n định hơn theo nghĩa nó không phụ thuộc vào gi định về dạng phân bố và sử dụng đơn giản hơn. C mẫu lớn hơn và kéo theo chi phí tăng cùng với việc sử dụng các phương pháp lấy mẫu định tính có thể là chính đáng vì những lý do này. Ngoài ra, chương trình định tính có th dễ hiểu và dễ chấp nhận hơn đối với người kiểm tra. Để tránh giả định về tính chuẩn và không có khả năng tham dự hoặc khó khăn trong việc kiểm tra điều này với “loạt ngắn” hoặc lô có tính chất “riêng biệt”, lấy mẫu định tính được khuyến nghị thậm chí đến mức độ chuyển đổi các phép đo thành định tính.

Khi các đặc trưng chất lượng đã biết là có phân bố chuẩn, ít nhất  mức gần đúng tốt, thì lấy mẫu định lượng có một ưu điểm cơ bản khi việc kiểm tra tốn kém, ví dụ khi thử nghiệm là phá hủy. Thông thường, phép chuyển đi toán học đơn giản, như lấy loga hoặc căn bậc hai, sẽ chuyển đổi tập hợp phép đo từ phân bố không chuẩn thành chuẩn, hoặc gần chuẩn.

Bảng 2 đưa ra so sánh về cỡ mẫu cho kiểm tra đnh tính và định lượng đối với loạt c lô nhất định khi sử dụng các phương án lấy mẫu một lần  bậc kiểm tra II (xem 8.6.1) trong kiểm tra thường. Những ưu điểm tương tự cũng có khi so sánh giữa kiểm tra định lượng và định tính trong lấy mẫu hai lần và lấy mẫu liên tiếp.

Bảng 2 – So sánh c mẫu trong kiểm tra đnh tính và định lượng

C lô

Cỡ mẫu một lần trong kiểm tra thường

Kiểm tra định tính
TCVN 7790-1 (ISO 2859-1)

Kim tra định lượng TCVN 8243-1 (ISO 3951-1)

Độ lệch chuẩn quá trình chưa biết

Độ lệch chuẩn quá trình đã biết

16 đến 25

5

4

3

91 đến 150

20

13

8

281 đến 500

50

25

12

1 201 đến 3 200

125

50

18

35 001 đến 150 000

500

125

32

8. Các xem xét khác ảnh hưởng đến việc lựa chọn

8.1. Loạt sản xuất dài và ngắn

Hầu hết các tiêu chuẩn lấy mẫu chấp nhận đều dự kiến sử dụng chủ yếu cho loạt các lô liên tục có độ dài đủ để cho phép áp dụng quy tắc chuyển đi. Điều này có nghĩa là loạt sản xuất “dài”.

TCVN 7790-2 (ISO 2859-2) là một ngoại lệ, trong đó đề cập đến các phương án chất lượng giới hạn (LQ) có thể sử dụng khi không th áp dụng các nguyên tắc chuyển đổi của TCVN 7790-1 (ISO 2859- 1). Các phương án này chủ yếu để sử dụng với các lô đơn hoặc lô có “tính cht riêng biệt”. Điều này có thể được hiểu là bao trùm loạt các lô kiểm tra “ngắn” – hoặc loạt sản xuất “ngắn”.

TCVN 7790-5 (ISO 2859-5) và TCVN 8243-1 (ISO 3951-1) đưa ra các phương án liên tiếp phù hợp với các tiêu chuẩn khác trong các loạt tương ứng và vì vậy trong nhiều trường hợp có th áp dụng tương tự cho loạt dài hoặc ngắn.

Đ loạt sản xuất đ điều kiện là “dài”, một tiêu chí rõ ràng là các nguyên tắc chuyển đổi có khả năng áp dụng được nếu “chất lượng không thỏa đáng”. Cũng rõ ràng là riêng tiêu chí này làm phát sinh một loạt các vấn đề phụ (như được đưa ra trong dấu ngoặc kép) phụ thuộc vào yêu cầu và hoàn cnh chiếm ưu thế trong từng trường hợp xem xét. Không thể quy định một cách đơn gin và chính xác những gì cấu thành một loạt ngắn (số lượng lô) trong ngữ cnh kiểm tra lấy mẫu.

Trong loạt sản xuất dài, có tính liên tục và ổn định, vì vậy việc sản xuất thiết lập trung bình quá trình ổn định dài hạn. Tuy nhiên, chất lượng của các lô riêng lẻ biến động quanh trung bình quá trình này. Mặt khác, tại thời điểm bắt đầu sn xut, sau khi dừng hoặc thay đổi đáng k trong sản xuất hoặc đối với loạt sản xuất ngắn, chất lượng lô có thể khác biệt đôi chút và biến động hơn, thậm chí là rõ rệt. Yếu tố thực tế cần xem xét việc có bằng chứng là trung bình quá trình n định đã được thiết lập và có còn tồn tại hay không.

8.2. Sự không phù hợp và cá thể không phù hợp

8.2.1. Sự không phù hợp

8.2.1.1. Khái quát

Bất kỳ sự không phù hợp với đặc trưng, kích thước, thuộc tính hay yêu cầu tính năng quy định của sản phẩm đều th hiện sự không phù hợp. Cá thể không phù hợp có thể có một hoặc nhiều sự không phù hợp.

Ví dụ, bút bi không viết được là một sự không phù hợp; chiếc bút đó là không phù hợp. Tuy nhiên, cùng chiếc bút đó có thể không phù hợp theo nhiều cách khác, ví dụ như màu sắc, kích thước, … Chiếc bút có nhiều sự không phù hợp vẫn được tính là một cá thể không phù hợp.

Tính chất “không phù hợp” không nhất thiết có nghĩa là đơn vị sản phẩm đó không th sử dụng cho mục đích dự kiến. Ví dụ, viên gạch có một trong các kích thước nằm ngoài khoảng dung sai quy định, mặc dù không phù hợp nhưng vẫn có thể sử dụng để xây dựng.

Sự khác biệt giữa sự không phù hợp và cá thể không phù hợp sẽ không quan trọng nếu cá thể chỉ có một sự không phù hợp nhưng sẽ tr nên thiết yếu khi có nhiều sự không phù hợp.

Chất lượng của một lượng sản phẩm nhất định có thể được biểu thị theo “phần trăm không phù hợp” hoặc theo “số không phù hợp trên một trăm cá thể”, nhưng điều này ch có thể hoán đi khi các cá th chỉ có thể có một sự không phù hợp.

Trong lấy mẫu định tính, phương án lấy mẫu sẵn có cho c phần trăm không phù hợp và số không phù hợp trên một trăm cá thể.

8.2.1.2. Ví dụ 2

Khi đếm lỗ kim trong lá kim loại, điều quan tâm có thể là số lượng lỗ kim trên một mét vuông, ở đây ta có thể đếm tất cả các lỗ kim trong mỗi mét vuông (cá thể) được kiểm tra và sau đó thể hiện chất lượng theo số lỗ pin trên 100 m2.

8.2.1.3. Ví dụ 3

Giả định rằng lô gồm 500 vật phẩm. Trong số này, 480 phù hợp và được chp nhận, 15 vật phẩm có một sự không phù hợp, bốn vật phm có hai sự phù hợp và một vật phẩm có ba sự không phù hợp.

Phần trăm không phù hợp của lô được cho bi công thức:

Phần trăm không phù hợp

=

số cá thể không phù hợp

x 100

tổng số cá thể

=

=

4;

nghĩa là lô có 4 % không phù hợp.

Số lượng không phù hợp trên một trăm cá thể trong lô được cho bởi công thức

Số không phù hợp trên 100 cá thể

=

số sự không phù hợp

x 100

tổng số cá thể

=

=

5,2;

nghĩa là lô có 5,2 không phù hợp trên một trăm cá thể.

8.2.1.4. Bình luận về Ví dụ 2 và 3

Do đó, trong lấy mẫu định tính, việc sử dụng phần trăm không phù hợp hay số không phù hợp trên một trăm cá thể là một vấn đề cần xem xét riêng trong từng trường hợp cụ th. Điều quan trng là việc này cần phải được xem xét, quy định và thỏa thuận trước, chứ không đ đến khi mẫu đã được kiểm tra rồi mới xem xét.

Trong lấy mẫu định lượng, các phương án lấy mẫu chỉ sẵn có cho phần trăm không phù hợp, vì thế không cần đưa ra lựa chọn. Tuy nhiên, các đặc trưng chất lượng khác nhau có thể thuộc về những loại khác nhau (xem 8.2.3), trong trường hợp như vậy, chúng được xử lý riêng rẽ.

8.2.1.5. Các yếu tố cần được tính đến

Các yếu tố cần tính đến khi quyết định sử dụng phn trăm không phù hợp hay số không phù hợp trên một trăm cá thể trong lấy mẫu định tính được nêu dưới đây.

a) Trong kim tra phần trăm không phù hợp, giả định rng, nếu cá thể có một hoặc nhiều sự không phù hợp thì cá thể đó là không phù hợp và không được chấp nhận.

Cũng giả định trước là những cách thức khác nhau để xác định cá thể không phù hợp là có giới hạn và đã biết, ví dụ, chỉ có 5 cách trong đó từng cá th cụ th là không phù hợp [xem thêm điểm b)].

b) Trong kiểm tra sự không phù hợp, mọi sự không phù hợp tìm thấy đều được tính. Nếu tìm được ba sự không phù hợp trong một cá thể thì tính là ba và được cho cùng trọng số như ba cá thể, mỗi cá thể có một sự không phù hợp.

Trường hợp đặc biệt phát sinh khi sự không phù hợp có thể xuất hiện trong một cá thể nhiều lần không biết được và gần như không giới hạn, ví dụ khuyết tật hay lỗ kim bề mặt có thể xut hiện nhiều lần và không biết được là bao nhiêu lần chúng không xut hiện, vì vậy phần trăm không phù hợp đối với đặc điểm này là vô nghĩa. Trong những trường hợp như vậy, cần sử dụng số không phù hợp trên một trăm cá thể (xem Ví dụ 2).

CHÚ THÍCH 2: Phần trăm không phù hợp trong kiểm tra lấy mẫu định tính hàm ý phân bố nhị thức; đối với số không phù hợp trên một trăm cá thể, phân bố Poisson là phù hợp.

c) Hai tính chất sẽ ph thuộc nếu nảy sinh số không phù hợp trong một cá thể, một phần hay toàn bộ, do một nguyên nhân ph biến nào đó, hoặc nếu một tính chất ảnh hưởng đến tính chất kia. Do đó, hiểu biết chi tiết về quá trình sản xuất là cần thiết đ xác định các tính chất có độc lập hay không, về mặt thống kê, nếu hai đặc trưng, ví dụ độ dài và đường kính, độc lập có nghĩa là nếu tất cả các đơn vị sản xuất được lấy và phân thành hai nhóm theo tiêu chí độ dài là không phù hợp hay không thì khi đó phần trăm không phù hợp đối với đường kính nhất thiết phải ging nhau trong mỗi nhóm; hoặc, ngược lại, nếu chúng được phân thành hai nhóm theo tiêu chí đường kính là không phù hợp hoặc không, thì khi đó phần trăm không phù hợp đối với độ dài nhất thiết phải giống nhau trong cả hai nhóm. Có chứng t bằng toán học là hai quy trình này tương đương nhau.

Nếu hai sự không phù hợp không độc lập thì chúng được gọi là có liên quan hoặc phụ thuộc, cần thống nhất rằng sự xut hiện của cả hai sự không phù hợp trong một cá thể chỉ được tính là một sự không phù hợp, không phải là hai. Đôi khi, mối tương quan giữa hai sự không phù hợp có liên quan là rất ít. Trong những điều kiện này, chúng có thể được coi là độc lập. Kiểm tra phần trăm không phù hợp có thể tránh được khó khăn này.

d) Nếu phần trăm sự không phù hợp trong lô nhỏ hơn 2,5 % thì phân bố xác suất của cá thể không phù hợp và số không phù hợp hầu như giống nhau. Trong phạm vi từ 2,5 % đến 10 %, một số khác biệt bộc lộ, phương án số không phù hợp trên một trăm cá thể tr nên ngặt hơn so với phương án phần trăm không phù hợp tương đương.

e) Tại trạm kiểm tra và  những nơi được chấp nhận, có thể thực hành đơn giản hơn và tốt hơn nếu sử dụng một phương pháp hơn là thường xuyên thay đổi từ phương pháp này sang phương pháp khác, ví dụ cá thể không phù hợp hơn là số không phù hợp trên một trăm cá thể.

f) Từ quan điểm duy trì hồ sơ sẽ hữu ích cho việc cải tiến chất lượng, số không phù hợp trên một trăm cá thể có thể được ưu tiên vì sau đó hồ sơ sẽ tự động lưu giữ thông tin về tất cả sự không phù hợp, trong khi một số sự không phù hợp có th không được lưu hồ sơ nếu sử dụng cách tiếp cận phần trăm không phù hợp.

8.2.2. Thuật ngữ

Nội dung đề cập trong phần còn tại của tiêu chuẩn này là về kiểm tra cá thể không phù hợp. Khi thích hợp có thể đọc đối với kiểm tra sự không phù hợp, bằng cách thay “cá thể không phù hợp” bằng “sự không phù hợp” và thay “phần trăm không phù hợp” bằng “số không phù hợp trên một trăm cá thể”.

8.2.3. Phân loại sự không phù hợp

Thảo luận cho đến nay gi định rằng, nếu vật phẩm có thể phân loại là không phù hợp theo nhiều hơn một cách thì những sự không phù hợp khác nhau có th có đều quan trọng như nhau. Khi đó, có thể kết luận bằng cách đếm số cá thể không phù hợp. Ví dụ, giả định rằng có ba hướng cần kiểm tra và, trong mẫu, ba vật phẩm chỉ không phù hợp theo hướng đầu tiên, ba vt phẩm ch theo hướng thứ hai, một vật phẩm chỉ theo hướng thứ ba và một vật phẩm theo cả hướng thứ nhất và hướng thứ hai. Điều này đưa ra tổng số tám cá thể không phù hợp, đó là số để so sánh với số chấp nhận và bác b.

Quy trình bổ sung cá th không phù hợp thuộc loại khác nhau ch hợp lý nếu sự không phù hợp nghiêm trọng như nhau hoặc gần như bằng nhau. Nếu không phải như vậy thì cần phân loại sự không phù hợp có thể có thành các nhóm sao cho những sự không phù hợp thuộc nhóm khác nhau có thứ tự quan trọng khác nhau nhưng tất c những sự không phù hợp trong một nhóm xấp xỉ có cùng thứ bậc quan trọng. Sau đó, các AQL khác nhau được sử dụng cho các nhóm khác nhau.

Vì nhiều mục đích, phân thành hai nhóm là đủ, đó là sự không phù hợp nặng loại A, được quan tâm nhiều nhất, và sự không phù hợp loại B, được quan tâm ít hơn. Đôi khi, trong hai loại này, cần phân loại hoặc loại con thêm nữa. Loại quan trng nhất trong tất c có những sự không phù hợp nghiêm trọng, có ảnh hưởng bất lợi cho việc sử dụng hoặc,  mức độ cao, làm cho vật phm nguy him hoặc tiềm n nguy him.

Sự không phù hợp nghiêm trọng là trường hợp đặc biệt và được thảo luận chi tiết hơn  8.2.4. Hiện tại, tho luận được giới hạn  những loại nặng và loại nhẹ. Những loại này đề cập đến sự quan trọng tương đối của sự không phù hợp khác nhau trong sản phẩm bất kỳ cho trước và vì bản thân sản phẩm có tm quan trọng khác nhau, các loại này không tương ứng với bất kỳ mức chất lượng tuyệt đối nào. Điều này kéo theo việc không có một AQL nào thường đi cùng với một loại cụ thể nào.

Việc phân loại sự không phù hợp cần được thực hiện đúng đắn. Rõ ràng là cần chú ý để không “phân loại thấp hơn” (ví dụ, phân loại đặc trưng là sự không phù hợp loại B trong khi nên là loại A), vì điều này sẽ dẫn đến sự cho phép nhiều sự không phù hợp thuộc loại này hơn trong phương án lấy mẫu đối với đặc trưng liên quan so với thực sự cần thiết. Tuy nhiên, việc không “phân loại cao hơn” cũng rt quan trọng.

Khi chọn hệ thống phân loại sự không phù hợp, cần phân b AQL khác nhau cho mỗi loại để đảm bảo rằng sự không phù hợp loại A, quan trọng hơn, sẽ được kiểm soát chặt hơn so với sự không phù hợp loại B.

Trong lấy mẫu định tính, nếu vật phẩm có hai hoặc nhiều sự không phù hợp và những sự không phù hợp thuộc các loại khác nhau thì sẽ được tính là cá thể không phù hợp thuộc loại nghiêm trọng hơn. Tuy nhiên, nếu việc kiểm tra là về sự không phù hợp hơn là về cá thể không phù hợp thì mi sự không phù hợp trong mẫu được tính theo loại phù hợp của nó.

Tại một thời điểm bất kỳ, những loại khác nhau có thể  mức độ kiểm tra khắc nghiệt khác nhau, ví dụ, loại A có thể  kiểm tra thường trong khi loại B  kiểm tra ngặt. Lô được kết luận là chp nhận được khi và chỉ khi các chuẩn mực chấp nhận cho tất cả các loại được đáp ứng.

8.2.4. Sự không phù hợp nghiêm trọng

8.2.4.1. Khái quát

Theo định nghĩa, sự không phù hợp nghiêm trọng thể hiện nguy hiểm và/hoặc ảnh hưởng bt lợi cho việc sử dụng hoặc an toàn. Những sự không phù hợp này tạo nên một loại đặc biệt. Không th chọn bất kỳ giá trị phần trăm không phù hp nào cho sự không phù hợp này, dù nh, và nói rng, “… phần trăm không phù hợp nghiêm trọng này là có thể chấp nhận được”.

Trường hợp kiểm tra không phá hủy, giải pháp thường được chọn là yêu cầu kiểm tra các đặc trưng quan trọng sử dụng cỡ mẫu bằng với cỡ lô và số chấp nhận bằng “không”. Đây là kiểm tra 100 % nhưng cần lưu ý rng đây không phải là phân loại 100 % truyền thống, ở đây không có nỗ lực phân loại các vật phẩm thành phù hợp và không phù hợp mà cố gắng kiểm tra việc không có cá thể kém chất lượng. Nếu tìm được sự không phù hợp nghiêm trọng thì điều này không chỉ đơn thun nghĩa là nó được đặt vào một hộp khác và tiếp tục việc kiểm tra; nó có nghĩa là toàn bộ lô không được chấp nhận (mặc dù không chấp nhận không nhất thiết có nghĩa là loại b). Bất cứ khi nào có thể, điều này cũng có nghĩa là việc sản xuất bị dừng trong khi tiến hành điều tra kỹ lưng nhằm phát hiện sự không phù hợp phát sinh như thế nào đồng thời đề ra phương thức để ngăn ngừa sự tái diễn. Lý do cho quy trình này là để cố gắng ngăn ngừa việc sản xuất các cá thể có sự không phù hợp nghiêm trọng và tránh tạo cho nhà sản xuất ấn tượng rằng điu này không quan trọng lắm nếu một vài trong số chủng được sản xuất ra vì người kim tra sẽ phân loại chúng. Ngay cả người kiểm tra giỏi đôi khi cũng không phát hiện được sự không phù hợp, vì thế chỉ bằng cách ngăn ngừa việc tạo ra những sự không phù hợp nghiêm trọng mới có thể đảm bảo rằng không có sản phẩm không phù hợp nào tới tay khách hàng.

Nếu cho rằng quy trình này không đm bảo cho bất kỳ sự không phù hợp nghiêm trọng cụ th nào thì cần xem xét nghiêm túc đ phân loại li thành sự không phù hợp nặng. Sự không phù hợp nghiêm trọng phải thực sự là quan trọng; khi đó, không một nỗ lực nào là quá lớn.

Trường hợp cách kiểm tra duy nhất có thể tiến hành đối với sự không phù hợp nghiêm trọng là kiểm tra phá hủy thì việc tìm cách ngăn ngừa chúng không bao giờ ny sinh thậm chí còn quan trọng hơn. Trong trường hợp này, ta không thể có mẫu là 100 % lô và cần quyết định cỡ mẫu cần lấy. Việc này có thể thực hiện cho lấy mẫu định tính bằng cách sử dụng công thức đơn giản liên hệ:

a) số sự không phù hợp/cá thể không phù hợp, nếu có, ta mong muốn hầu như chắc chắn tìm được ít nhất một sự không phù hợp/cá thể không phù hợp trong mẫu;

b) c lô;

c) c mẫu;

d) rủi ro ta chuẩn bị đón nhận nếu không tìm thấy sự không phù hợp/cá thể không phù hợp.

Cỡ mẫun, thu được bằng cách sử dụng công thức sau đây, sau đó làm tròn đến số nguyên gần nhất1):

trong đó

N          là c lô;

b          là xác suất quy định không tìm được ít nhất một sự không phù hợp nghiêm trọng;

d          là số tối đa các cá thể không phù hợp nghiêm trọng ‘cho phép’ trong lô.

CHÚ THÍCH: Nếu p là tỷ lệ không phù hợp lớn nht quy định cho lô thì d = Np được làm tròn xuống số nguyên gần nhất2).

Lô được chấp nhận nếu không tìm thấy sự không phù hợp nghiêm trọng nào trong mẫu.

8.2.4.2. Ví dụ 4

Giả định rằng có một lô gồm 3 454 cá thể. Quy định xác suất, b, là 0,001 và phần trăm tối đa là 0,2 % cá thể không phù hợp nghiêm trọng.

Khi đóp = 0,2/100 = 0,002 và Np = 3 454 x 0,002 = 6,908, được làm tròn xuống thành d = 6.

CHÚ THÍCH: Giá trị  đây được làm tròn xuống vì việc làm tròn lên có thể dẫn đến d = 7, nghĩa là phần trăm không phù hợp 100 x 7/3 454 = 0,2027, s vượt quá quy định 0,2 %.

Vì thế, (– d/2)(1 – b1/(d+1)) = (3 454 – 3)(1 – 0,0011/7) = 3 451 x 0,627 24 = 2 164,61, được làm tròn lên thành n = 2 165.

Phương án lấy mẫu là:

– cỡ mẫu n = 2 165;

– số chấp nhận Ac = 0 cá thể không phù hợp;

– số loại bỏ Re = 1 cá thể không phù hợp.

CHÚ THÍCH: C mẫu rất lớn là do yêu cu độ tin cậy cao với t lệ cá thể không phù hợp nghiêm trọng thấp.

Để tìcỡ lô, N, cần có được số cá thể quy định, L, sau khi phá hủy mẫu gồm n cá thể thử, giả định không tìm thấy cá thể không phù hợp nào, khi đó với giá trị xác suất b cho trước và số cá thể không phù hợp trong lô, c lô là:

N = (– d/2) / – b1/(d+1)d/2

làm tròn lên thành một số nguyên.

8.2.4.3. Ví dụ 5

Nếu yêu cầu 1 500 cá thể sau khi th nghiệm mẫu, sử dụng b = 0,001 và d = 6 như trong Ví dụ 4, khi đó L là 1 500 và cỡ lô là (1 500 – 6/2)/0,0011/7 + 6/2 = 1497/0,372 76 + 3 = 4 018,99, được làm tròn lên thành N = 4 019.

(Suy ra n = N – L = 4 019  1 500 = 2519. Giá trị này của n cũng thu được bằng công thức (1) với cỡ lô 4 019.)

8.2.4.4. Bình luận

Nếu tính toán ban đầu dẫn đến một cỡ mẫu hoặc cỡ lô không khả thi thì rủi ro (xác suất) và/hoặc só sự không phù hợp/cá thể không phù hợp có thể có trong lô cần được đánh giá lại và thiết lập chuẩn mực mới.

Xét một phương án lấy mẫu khác đối với sự không phù hợp nghiêm trọng, trong đó đặc trưng được xem là quan trọng là đặc trưng có thể đo được trên mẫu và có gii hạn an toàn chứ không phải là một thuộc tính đơn thuần. Vì vậy, nếu tải kéo đứt nhỏ nhất cho phép đối với một thành phần nào đó là 2 000 kg thì có thể thay giới hạn 2 000 kg tương ứng sự không phù hợp nghiêm trọng bằng giới hạn 2 500 kg tương ứng sự không phù hợp nặng. Vậy các giới hạn cần được thiết lập đến đâu và phương án lấy mẫu nào là được phép, tùy thuộc vào hiểu biết trước đây về mức độ biến động quan sát được về độ bền của thành phần được xét. Khi cách tiếp cận này khả thi, nó có thể đưa ra kết quả thỏa mãn cho tt cả các vấn đề liên quan hơn nhiều so với kim tra 100 %. Trong trường hợp này, có khả năng sử dụng lấy mẫu định lượng [TCVN 8243 (ISO 3951)], sẽ cho phép thử quá ứng suất và cung cấp thông tin về trung bình và độ biến động của đặc trưng.

8.3. Đường đặc trưng hiệu qu (OC)

83.1. Khái quát

Đường đặc trưng hiệu quả là đường cong th hiện bất kỳ phương án lấy mẫu cụ th nào có thể làm được biểu thị theo các lô được chấp nhận và không được chấp nhận; nghĩa là, đây là một dạng “đường cong hiệu qu”. Đường OC đề cập tới một phương án lấy mẫu cụ th. Mỗi phương án có thể có đường cong riêng.

8.3.2. Đường OC dùng cho lấy mẫu định tính

Trong lấy mẫu chấp nhận định tính, có hai “loại” đường OC, gọi là Loại A và Loại B. Lấy trường hợp tổng quát đầu tiên là một loạt sản xuất dài có chất lượng trung bình quá trình n định (100p % không phù hợp, trong đó p nm trong dải từ 0 đến 1), chất lượng của các lô được lấy từ loạt đó sẽ thay đi quanh trung bình quá trình này theo phân bố nhị thức. Đối với từng độ biến động về chất lượng lô, trục tương ứng của đường OC sẽ đưa ra tỷ lệ trung bình của các lô (có chất lượng cụ th) được chấp nhận bi phương án lấy mẫu làm cơ sở cho đường OC. Đường OC trong trường hợp này được gọi là thuộc Loại B và mô tả cách người sử dụng có thể nhìn nhận đặc trưng hiệu quả của phương án lấy mẫu về mặt cung cấp sản phẩm ổn định từ một nguồn cho trước.

Trong trường hợp các lô tách biệt hoặc riêng rẽ, đường OC thực tế là một loạt các đim khác biệt  mức chất lượng 0, 1/N, 2N, … hơn là một đường cong. Do tính chất tách biệt của lô, có thể không hợp lý khi giải thích các trục của đường OC là tỷ lệ trung bình loạt dài của lô được chấp nhận. Tuy nhiên, việc giải thích như vậy là có thể nếu ta hình dung một quá trình tưng tượng sản xuất một loạt lô giống nhau, nghĩa là các lô đều có cùng cỡ và chất lượng (100/p % không phù hợp). Khi đó, trục của đường OC lại là tỷ lệ của những lô giống nhau sẽ được chấp nhận bằng phương án lấy mẫu cho trước. Tuy nhiên, trong trường hợp này ta không lấy mẫu từ quá trình có độ biến động ngẫu nhiên về chất lượng mà từ một số hữu hạn các cá thể tạo thành một lô. Các trục của đường OC ch ra các xác suất chấp nhận (hơn là tỷ lệ trung bình của lô được chấp nhận) được cho bởi phân bố siêu hình học và phụ thuộc vào cỡ . Đường OC này được gọi là thuộc loại A và mô tả cách người sử dụng có thể nhìn nhận đặc trưng hiệu quả trong trường hợp các lô tách biệt hoặc riêng rẽ.

Mặc dù hai loại đường OC được xác định bằng phân bố xác suất khác nhau nhưng đường cong Loại B phục vụ cả hai mục đích. Điều này là vì nó có thể lấy làm xấp xỉ tốt với đường cong Loại A khi cỡ lô đủ lớn, nghĩa là 10 hoặc hơn 10 lần c mẫu, mặc dù cần lưu ý rằng chất lượng là của lô tách biệt chứ không phải của việc sản xuất. Nếu cỡ mẫu gồm một phần lớn hơn của lô và số chấp nhận là số nguyên dương (đối lập với “không”) thì đường cong Loại B (xấp xỉ với Loại A) cho dấu hiệu bi quan về rủi ro của nhà sản xuất và của khách hàng, nghĩa là nó sai lầm “về phía an toàn”. Đối với các lô lớn, đường cong Loại A và Loại B gần như giống hệt nhau. Vì vậy, đối với mục đích thực tiễn, đường cong Loại A có thể được sử dụng cho cả hai loại ly mẫu mà không có sai lầm đáng k trong hầu hết các trường hợp. Đường OC dùng cho các phương án lấy mẫu chấp nhận đối với phần trăm không phù hợp được nêu trong TCVN 7790 (ISO 2859) và TCVN 8243 (ISO 3951) là thuộc loại B.

TCVN 7790-1 (ISO 2859-1) trình bày đường đặc trưng hiệu qu của phương án kiểm tra lấy mẫu phần trăm không phù hợp và số không phù hợp trên một trăm cá thể. Các đường đặc trưng hiệu quả (OC) này cho thấy phần trăm trung bình các lô được chấp nhận như một trục được vẽ theo phần trăm không phù hợp hoặc số không phù hợp trên một trăm cá thể trong chất lượng quá trình là tọa độ. Đối với phần trăm không phù hợp, chúng được tính dựa trên phân bố nh thức khi c mẫu đơn bằng hoặc nhỏ hơn 80. Đối với số không phù hợp trên 100 cá thể, phân bố Poisson là phù hợp và được sử dụng khi tính toán đường OC cho các phương án lấy mẫu này.

Phân bố Poisson dựa trên gi định rng sự không phù hợp xuất hiện độc lập với kỳ vọng không đổi. Giả định này đúng trong nhiều trường hợp. Mọi sai lệch cơ bản khỏi giả định này đều dẫn đến phân bố có phương sai lớn hơn so vi phương sai của phân bố Poisson. Trong trường hợp này, sự bảo vệ của người tiêu dùng cao hơn một chút so với được ch ra bởi đường đặc trưng hiệu quả.

Trong ISO 2859-2, các bảng cho Quy trình A (nghĩa là đối với lô riêng biệt) được dựa trên lấy mẫu ngẫu nhiên từ số hữu hạn các lô cho c rủi ro của khách hàng và ri ro của nhà sản xuất. Tuy nhiên, đối với Quy trình B, các bảng được dựa trên lấy mẫu ngẫu nhiên từ số hữu hạn các lô đi với ri ro của người tiêu dùng  LQ, nhưng dựa trên lấy mẫu ngẫu nhiên từ quá trình đối với rủi ro của nhà sản xuất và đường OC. Đường đặc trưng hiệu quả ch thị giảm xác suất chấp nhận trong đó nó được ch thị là lớn hơn 0,90 và ch thị tăng xác suất chấp nhận trong đó chỉ ra là nh hơn 0,90.

8.3.3. Đường OC dùng cho lấy mẫu định lượng

Các tiêu chuẩn dùng cho lấy mẫu định lượng dựa trên gi định là các đặc trưng chất lượng có phân bố chun hoặc có phân bố có th chuyển đi thành chuẩn. Giả định này sẽ không thể xác nhận được đối với các lô riêng biệt hoặc loạt ngắn. Bên cạnh đó, các phép đo đặc trưng trên lô có cỡ hữu hạn không thể được coi là có phân bố chuẩn thực sự. Mặt khác, rất có khả năng quá trình sản xuất tại thời điểm lô được tạo ra có thể đã tạo ra các cá thể có đặc trưng chất lượng phân bố chuẩn hoặc có thể chuyển đổi thành chuẩn. Vì những lý do này, ch áp dụng được đường OC loại B cho lấy mẫu định lượng.

Đối với lấy mẫu định lượng, đường đặc trưng hiệu quả phù hợp với những đường dùng cho phương án lấy mẫu định tính đối với c lô và mức chất lượng tương tự. Trong khi đường OC Loại B dùng cho lấy mẫu định lượng có phân bố nhị thức, thì những đường cong dùng cho lấy mẫu định lượng bao hàm:

a) phân bố t không trung tâm đối với những trường hợp chưa biết độ lệch chuẩn của quá trình;

b) phân bố chuẩn trong những trường hợp đã biết độ lệch chuẩn của quá trình.

Quyết định về khả năng chấp nhn được dựa trên đánh giá về phần trăm không phù hợp xác định từ trung bình và độ lệch chuẩn của phép đo các đặc trưng thu được trên tt cả các cá thể trong mẫu.

Đường OC dùng cho lấy mẫu định lượng thể hiện phần trăm trung bình các lô được chấp nhận nhưng không cho thấy xác suất chấp nhận của các lô cụ thể. Đối với một lô cụ thể, có thể xảy ra việc lô bị bác b không có cá thể không phù hợp. Ngược lại, một lô riêng biệt có một tỷ lệ cá thể không phù hợp cao nhất định có thể có xác sut không được chp nhận thực tế nhỏ hơn so với thể hiện trên đường OC cho toàn bộ quá trình.

8.4. Rủi ro của việc lấy mẫu

8.4.1. Rủi ro khi lấy mẫu: rủi ro của nhà sản xuất và rủi ro của người tiêu dùng

Vì các mẫu ch là một phần nh của toàn bộ lô hoặc hàng ký gửi kiểm tra nên việc lấy mẫu có những rủi ro cho cả nhà sản xuất lẫn người tiêu dùng. Đôi khi, một lô “tốt” có thể không được chấp nhận vì mẫu kiểm tra, mặc dù chọn ngẫu nhiên, không phản ánh chất lượng thực của lô. Ri ro xảy ra điều này được gọi là “rủi ro của nhà sản xuất” (PR). Ngược lại, một lô “chất lượng kém” có thể đạt khi kiểm tra vì dữ liệu sẵn có trong mẫu giới hạn. Việc này được gọi là “rủi ro của người tiêu dùng” (CR).

Rủi ro đi kèm việc lấy mẫu có thể được tính toán và đánh giá được nêu rõ trong 8.3. Bằng cách sử dụng đường đặc trưng hiệu quả của nó, đối với mỗi phương án lấy mẫu có thể đọc được t lệ các lô sẽ được chấp nhận với chất lượng đầu vào (hoặc quá trình) nhất định, nghĩa là xác suất chấp nhận đối với mức chất lượng quy định.

Nhà sản xuất có thể đòi hi xác suất chp nhận cao nếu chất lượng là tốt, trong khi khách hàng có thể mong muốn xác suất chấp nhận thấp nếu cht lượng kém. Thông thường, xác suất này được thiết lập tương ứng  mức 0,95 và 0,10. Điều này tạo ra PR không được chấp nhận là 0,05 hoặc 5 % và CR chấp nhận cht lượng thấp là 0,10 hay 10 %. Một thực tiễn ngày càng ph biến là tạo ra PR và CR đều bằng 5 %. Đối với phần trăm PR và CR xác định trước, chất lượng tương ứng rủi ro của nhà sản xuất (PRQ) và chất lượng tương ứng rủi ro của người tiêu dùng (CRQ) có thể thấy từ đường OC (xem Hình 1). Ngược lại, đối với đường OC cho trước, AQL và mức chất lượng giới hạn (LQL) tương ứng xác định PR và CR (xem Hình 2). Một cách khác, phương án lấy mẫu và đường OC của nó có thể được thiết kế riêng cho “khớp” với điểm rủi ro của nhà sản xuất chọn trước (AQL, 1,0 – PR)3) và điểm rủi ro của người tiêu dùng (LQL, CR).

Việc xem xét đường OC dùng cho phương án lấy mẫu một lần xác định theo AQL trong kiểm tra thường, ví dụ lấy mẫu định tính như quy định trong TCVN 7790-1 (ISO 2859-1) sẽ cho thy là  AQL được ấn định, xác suất chấp nhận thay đi từ xấp x 0,87 đến 0,99 (nghĩa là PR biến thiên từ 13 % đến 1 %). Đây là một đặc điểm của các phương án lấy mẫu AQL này và, do đó, của phương án bất kỳ được thiết kế đ có các đặc trưng “phù hợp” với của các phương án lấy mẫu một lần xác định theo AQL này. Không nên sử dụng thuật ngữ “AQL” mà không viện dẫn đến một tiêu chuẩn nào trong bộ tiêu chuẩn TCVN 7790 (ISO 2859) hoặc TCVN 8243 (ISO 3951), hoặc tiêu chuẩn tương đương. Đồ thị OC và các bảng trong các tiêu chuẩn này cũng cho thấy ảnh hưởng của việc chuyển sang kiểm tra ngặt: PR tăng với cùng một AQL trong khi CR giảm với cùng một LQ.

Khi vận hành hệ thống lấy mẫu, các quy tắc chuyển đi là yếu tố quan trọng khi xem xét rủi ro do ly mẫu. Ví dụ, đường OC trong TCVN 7790-1 (ISO 2859-1) cho thấy nên kỳ vọng những gì trong kiểm tra thường. Chúng cho thấy rằng đối với tt c các phương án lấy mẫu quy định trong tiêu chuẩn đó, phần trăm các lô có khả năng được chấp nhận nếu chất lượng quá trình  mức gấp hai lần AQL là nh hơn 80 %. Ngay lập tức, tỷ lệ chấp nhận như vậy sẽ dẫn đến việc chuyn sang kim tra ngặt. Tỷ lệ chấp nhận  AQL trong kiểm tra ngặt sẽ chỉ  mức 80 % và  hai lần AQL sẽ giảm xuống xp x 50 % và còn thp hơn nhiều trong nhiều trường hợp. Những tỷ lệ chấp nhận thấp này trong kiểm tra ngặt cần được nhanh chóng điều tra về nguyên nhân của cht lượng kém. Cuối cùng quy tắc ngừng kiểm tra lấy mẫu làm cho việc điều tra này trở thành bắt buộc. Hành động sửa chữa được thực hiện sẽ dẫn đến việc tr lại mức chất lượng trước đó hoặc thường dẫn đến chất lượng được cải thiện.

CẢNH BÁO: Mặc dù đường OC là một khái niệm rất hữu ích, không ch trong phân tích rủi ro, nhưng trong thực tế rất hiếm có các lô theo loạt, nếu có thì các quá trình giống nhau và vận hành hiếm khi ngẫu nhiên một cách chặt chẽ. Trong khi các đường cong cho thấy nên kỳ vọng gì trong các điều kiện quy định, chúng không thể mô t chính xác những gì xảy ra trong khoảng thời gian khi các điều kiện thay đổi liên tục. Vì vậy, ta phải thận trọng với việc đưa ra những khẳng định giáo điều.

8.4.2. Phương pháp giảm thiểu rủi ro

Rủi ro trong kiểm tra lấy mẫu, trong c việc chấp nhận lô kém và không chấp nhận lô tốt, là không th tránh khỏi, nhưng những rủi ro này cần được chấp nhận nếu AQL và bậc kiểm tra được lựa chọn tốt.

Nếu trong trường hợp cụ thể, nhà sản xuất hoặc khách hàng cho rằng rủi ro mà mình nhận được là quá cao thì nên kiểm tra việc AQL và bậc kim tra đã được lựa chọn tốt.

Nhà sản xuất sẽ quan tâm đến việc giảm thiểu rủi ro khi chất lượng tốt hơn AQL  họ không được quyền làm bất kỳ việc giảm thiểu rủi ro nào khác. Khách hàng sẽ đặc biệt quan tâm đến rủi ro khi chất lượng kém hơn AQL vì nếu chất lượng tốt hơn AQL thì họ sẽ có được chất lượng yêu cầu.

Các phương pháp giảm thiểu ri ro cho c hai bên được đề cập trong TCVN 9946-2 (ISO/TR 8550-2) đối với lấy mẫu định tính và trong TCVN 9946-3 (ISO/TR 8550-3) đối với lấy mẫu định lượng. Tóm lại, khi có thể, chúng được dùng đ:

a) cải thiện chất lượng sản xuất;

b) tăng c lô;

c) trong trường hợp lấy mẫu định tính, khi số chấp nhận bằng “không”, làm tăng số chấp nhận lên 1 trong khi vẫn giữ nguyên AQL.

CHÚ DN

X chất lượng quá trình (giảm)

xác suất chp nhận

1 đim rủi ro của nhà sản xuất (PRP)

đim rủi ro của người tiêu dùng (CRP)

rủi ro của nhà sn xut (PR)

xác suất chấp nhận cao

xác suất chấp nhận thấp

ri ro của người tiêu dùng (CR)

chất lượng ứng với rủi ro của nhà sản xut (PRQ)

chất lượng ứng với rủi ro của người tiêu dùng (CRQ)

Hình 1 – Đường đặc trưng hiệu quả xác định bởi rủi ro của nhà sản xut (PR) và rủi ro của người tiêu dùng (CR)

CHÚ DẪN

X chất lượng quá trình (giảm)

Y xác suất chấp nhận

điểm rủi ro của nhà sản xuất (PRP)

điểm ri ro của người tiêu dùng (CRP)

rủi ro của nhà sản xuất (PR)

xác suất chp nhận cao

xác suất chấp nhận thấp

rủi ro của người tiêu dùng (CR)

giới hạn chất lượng chấp nhận (AQL)

mức cht lượng giới hạn (LQ)

Hình 2 – Đường đặc trưng hiệu quả xác định bởi giới hạn cht lượng chấp nhận (AQL) và chất lượng giới hạn (LQ)

8.5. Lựa chọn giá trị AQL, PRQ, LQ và CRQ

8.5.1. AQL  PRQ

8.5.1.1. Ý nghĩa của AQL và PRQ

Đối với mục đích của tiêu chuẩn này, AQL và PRQ có thể được coi là đồng nghĩa. Chúng đều là ch số mức chất lượng có thể chấp nhận cho mục đích kiểm tra lấy mẫu, điểm khác biệt là PRQ đi kèm với PR nhỏ quy định trong khi AQL chỉ mức cht lượng ứng với PR (không quy định) sẽ là nhỏ.

8.5.1.2. Thiết lập AQL

Khi thiết lập AQL, cần nhớ là AQL cung cấp ch thị về chất lượng được yêu cầu trong sản xuất. Nhà cung cấp được yêu cầu tạo ra các lô có chất lượng trung bình tốt hơn AQL. Một mặt, chất lượng này phải đạt được một cách hợp lý, mặt khác trên quan đim của khách hàng, đó cũng phải là cht lượng chấp nhận được. Thông thường, điều này có nghĩa là sự thỏa hiệp giữa chất lượng mà khách hàng mong muốn và chất lượng họ có thể chi tr, đối với yêu cầu càng chặt chẽ thì sản xuất càng khó có thể đáp ứng, và việc kiểm tra có thể tốn kém hơn để có thể đảm bảo rằng yêu cầu được đáp ứng.

Xem xét chính phải là yêu cầu của khách hàng nhưng cần chắc chắn rằng khách hàng thực tế và không đòi hi chất lượng tốt hơn mức cần thiết, cần tính đến việc cá thể quan tâm s được sử dụng như thế nào cũng như những hệ quả của sai lỗi. Nếu cá thể được cung cấp với số lượng lớn và sai lỗi đơn thuần là sai lỗi lắp ráp để cá thể không phù hợp có thể bị bỏ đi và cá thể khác được sử dụng để thay thế thì một AQL tương đối chung có thể chấp nhận được. Nếu một mặt, sai lỗi dẫn đến hỏng chức năng của một bộ phận thiết bị đắt tiền và quan trọng tại một thời điểm và vị trí mà không thể thay thế cá thể không phù hợp thì sẽ cần đến một AQL chặt hơn.

Cũng cần xem xét việc nhiều thành phần sẽ nằm trong thiết bị cuối cùng. Nếu, ví dụ, quyết định là chất lượng của bộ phận thiết bị gồm ba linh kiện độc lập khác nhau nhưng quan trọng ngang nhau không được lớn hơn 10 % không phù hợp, thì mỗi trong số ba linh kiện này có 3,45 % không phù hợp và yêu cầu có thể đáp ứng. Tuy nhiên, nếu chiếc máy có mười linh kiện thì trung bình các linh kiện này không được kém hơn 1,04 % không phù hợp.

Cần nhớ là ngay cả khi các linh kiện được lấy mẫu theo một AQL đơn lẻ thì chúng cũng xuất phát từ một hoặc các nguồn có trung bình quá trình nh hơn để làm tăng xác suất chấp nhận lô.

Nếu các linh kiện phù hợp hoặc không phù hợp một cách độc lập thì nó tuân theo quy luật nhân xác suất mà tỷ lệ phù hợp tổng th là:

từ đó suy ra tỷ lệ không phù hợp tổng thể là

trong đó

k là số linh kiện trong cụm lắp ráp;

là phần trăm không phù hợp của cụm lắp ráp;

x là phần trăm không phù hợp của từng linh kiện.

Do đó, AQL của X cho cụm lắp ráp được chuyển đổi thành AQL của x đối với từng linh kiện.

CHÚ THÍCH 1: Tuy nhiên, giá trị của X không tính đến sự không phù hợp có thể nảy sinh thông qua quá trình lắp ráp lỗi.

CHÚ THÍCH 2: AQL là giới hạn của trung bình quá trình thỏa mãn. Kỳ vọng là cht lượng của nhà cung cp sẽ tốt hơn AQL.

Các công thức trên áp dụng khi các linh kiện, cho mọi dự kiến và mục đích, giống nhau. Tổng quát hơn, nếu phần trăm không phù hợp của k linh kiện tương ứng là x1x2, …, xkthì, nếu linh kiện phù hợp hoặc không phù hợp một cách độc lập, dẫn đến:

 đây, sẽ có những yêu cầu khác nhau đối với những linh kiện khác nhau, đóng góp vào yêu cầu tổng thể X. Trong việc chia X thành các mức chất lượng x1x2, …, xk, nhà thiết kế sn phẩm cần luôn tham khảo ý kiến tư vấn, nếu có thể.

Trong những trường hợp này, nhà sản xuất có thể mong muốn chọn AQL phù hợp cho từng linh kiện, sau đó tính mức chất lượng nào có thể kỳ vọng trong toàn thiết b, trong khi người tiêu dùng mong muốn quy định AQL cho toàn bộ thiết bị và sau đó tính ra chất lượng yêu cầu đối với các linh kiện. Nói chung, cách thứ hai trong hai cách tiếp cận này có thể hợp lý hơn ở chỗ hiệu năng của toàn thiết b mới là vấn đề nhưng cũng là cách tiếp cận tốn kém hơn vì nó thường dẫn đến AQL nh hơn. Tuy nhiên, phải chấp nhận là chất lượng tốt trong một vật phẩm phức tạp rõ ràng đắt hơn so vi cht lượng tốt ngang bằng trong một vật phẩm đơn giản.

Câu hi mức chất lượng nào có thể kỳ vọng một cách hợp lý, ở mức giá khách hàng chuẩn bị chi tr và với những phương pháp sản xuất đã đề ra, thường được trả lời bằng việc kiểm tra mức cht lượng nào đã được sản xuất ra và được chấp nhận trong quá khứ. Trường hợp vật phẩm mới, nghĩa là chưa được sản xut trước đó; thường sẽ có những vật phẩm tương tự khác có thể thu thập thông tin liên quan. Các tính toán về trung bình quá trình trong quá khứ có thể đặc biệt hữu ích. Không nên lấy ý ng nhìn vào chất lượng thu được trong quá khứ này với nghĩa là mức chất lượng trong quá khứ luôn đủ tốt. Chi phí sản xuất một cá thể không phù hợp thường gần như bằng với cá th phù hợp, vì thế việc giảm phần trăm không phù hợp thường dẫn đến giảm chi phí sản xuất.

Mặc dù mọi người thường tin rằng chất lượng tốt sẽ tốn kém hơn, nhưng điều ngược lại thường đúng. Kiểm soát quá trình hiệu quả có thể mang lại chất lượng cực tốt, thậm chí đến mức phần triệu. Chất lượng đạt được theo cách này thường ít tốn kém hơn chất lượng kém hơn do không có kiểm soát quá trình. Lý do chính của điều này là không gần như không có loại b, làm lại hoặc vật liệu trả về.

Việc cố gắng đạt được chất lượng tuyệt hảo bằng kiểm tra và phân loại còn tốn kém hơn nhiều và không mang lại hiệu quả cao do tính không hiệu quả của việc kiểm tra. Vì vậy, các cố gắng nhm đạt được chất lượng ở AQL nh, hoặc phần triệu, tr nên cần thiết kèm theo với việc xem xét quy trình kiểm soát quá trình và thiết kế của sản phẩm, hơn là cố gắng đạt được những kết quả như vật bằng việc kiểm tra.

8.5.1.3. Ảnh hưởng của độ biến động lấy mẫu

Việc đơn thuần thiết lập AQL không mang lại cho khách hàng sự đảm bảo rằng lô có chất lượng kém hơn sẽ không được chấp nhận. Trước tiên, AQL đề cập đến trung bình. Một số  có thể kém hơn AQL trong khi trung bình lại tốt hơn AQL. Thứ hai, nếu chất lượng trung bình được đưa ra kém hơn một chút so với AQL thì một số lô có thể sẽ được chấp nhận trước khi được yêu cầu chuyển sang kiểm tra ngặt, và thậm chí sau khi chuyển đổi, vẫn có khả năng một số được chp nhận. Tuy nhiên, nói chung, có thể kỳ vọng là khách hàng sẽ nhận được sản phẩm có trung bình tốt hơn AQL, vì chương trình lấy mẫu sẵn có động cơ kinh tế mà nhà sản xuất không đ khả năng đ có nhiều hơn một tỷ lệ nh các lô không được chấp nhận. Vì thế, nhà sản xuất sẽ thực hiện các bước để cải thiện chất lượng sản xuất nếu t lệ này bị vượt quá.

Từ quan điểm của khách hàng có thể cho rng điều này không thỏa mãn vì nó dựa trên những gì có thể xảy ra hơn là dựa vào những gì chắc chắn xảy ra. Tuy nhiên, trên thực tế, hầu hết các nhà sản xuất đều thực hiện biện pháp để thấy rằng trung bình quá trình của mình không vượt quá AQL nếu ch vì việc thường xuyên không chấp nhận lô làm cho khó khăn. Trong trường hợp bất kỳ, sự bảo vệ của khách hàng phụ thuộc vào đầu phía dưới của đường OC cũng như đu phía trên có liên quan đến AQL, và đầu phía dưới này có thể được điều chnh bằng cách xem xét giá tr LQ của phương án lấy mẫu bất kỳ được gợi ý.

Nếu quyết định là cách tiếp tiếp cận này không đủ cho một sn phẩm cụ th và cần có sự bo vệ khách hàng tích cực hơn thì điều này luôn đạt được bằng cách quy định AQL nhỏ hơn, với lưu ý là điều này có thể làm tăng chi phí của sản phẩm. Tuy nhiên, thông thường, cách tiếp cận thích hợp nhằm cải tiến chất lượng và ít sự không phù hợp sẽ dẫn đến chi phí thấp hơn. Ngay cả nếu có thêm chi phí thì nó sẽ thường đáng giá về mặt duy trì hay m rộng nền tảng khách hàng.

8.5.1.4. AQL làm chỉ số

Không nhất thiết AQL là lựa chọn chính từ đó rút ra những giá trị khác. Khi tình huống đòi hi, thường có thể nhập bng lấy mẫu “theo cách không chính thống”, chọn phương án bng một số chuẩn mực khác và sau đó tìm AQL quy định để có kết quả mong muốn. Trong trường hợp này, AQL là một ch số thuận lợi để cho phép sử dụng các bảng chuẩn, và điều này cho phép nhà sản xuất quyết định chất lượng tại đó phải sản xuất đ có được hầu hết các lô được chấp nhn.

Nếu sử dụng phương pháp ”không chính thống” như vậy, thì lựa chọn chính có thể là đim thp trên đường cong, trong đó điều này được cho là đặc biệt quan trọng, hoặc một số tiêu chí kinh tế. Tiêu chí kinh tế đơn giản nhất có thể đã được gợi ý là đưa ra ước lượng thời điểm hòa vốn, nghĩa là chất lượng lô sao cho, nếu lô được chấp nhận, chi phí của hỏng hóc do cá thể không phù hợp được chấp nhận ngang bằng với chi phí không chấp nhn lô.

8.5.1.5. Chất lượng ứng với điểm hòa vốn

Nếu cht lượng ứng với điểm hòa vốn này, hoặc không phân biệt, có thể ước lượng, thì có thể chọn phương án lấy mẫu sao cho,  chất lượng này, 50 % các lô có thể được chấp nhận. Điều này không chỉ vì 50 % khả năng chấp nhận  chất lượng này là đặc biệt mong muốn. Theo định nghĩa, nếu chất lượng cụ th này được cung cấp thì phương án kiểm tra nào đ thực hiện không phải là mối quan tâm lớn. Đúng hơn là vì phương án như vậy đảm bảo nhiều hơn 50 % khả năng được chấp nhận với chất lượng tốt hơn so với chất lượng ứng với đim hòa vốn, và lớn hơn 50 % khả năng không được chấp nhận với chất lượng kém hơn chất lượng ứng với điểm hòa vốn.

8.5.1.6. Thỏa hiệp giữa AQL và dung sai

Đôi khi có thể có sự thỏa hiệp” giữa AQL và sự chấp nhận. Ví d, kích thước được quy định với dung sai ± 0,6 mm và AQL là 0,5 % được chọn. Nếu phép đo kích thước này xấp xỉ phân bố chuẩn thì dung sai ± 0,3 mm với AQL 10 % sẽ cho cùng một kết quả. Điều này dựa trên diện tích tương đối  đuôi của phân bố theo thang đo. Chấp nhận sửa đổi này có giá trị là 10 % không phù hợp dễ phát hiện hơn nhiều, dẫn đến giảm thiểu đáng kể cỡ mẫu. Tuy nhiên, có những bất lợi đi kèm với các thái cực này.

Ví dụ, sử dụng TCVN 7790-1 (ISO 2859-1) và bậc kim tra vừa phải, AQL bng 0,1 % hàm ý là c lô phải trên 10 000, trong khi đối với AQL bng 10 %, cỡ lô có thể nằm trong khoảng từ 30 tr xuống. Việc giảm dung sai đặt ra một áp lực không thực lên hoạt động kiểm tra vì kiểm tra sẽ đòi hi ghi lại khi các kích thước không phù hợp thực tế phù hợp với dung sai kích thước quy định. Tệ hơn là tình trạng trong đó lô đã được kết luận là “không được chấp nhận” và đã được kiểm tra khi, trên thực tế, hầu hết sản phẩm đều nằm trong quy định kỹ thuật. Trong những tình huống này, có th dẫn đến, tuy là sai, việc đánh giá lại các phép đo mẫu vi phạm dựa trên dung sai quy định kỹ thuật của sn phm. Việc sử dụng các giới hạn “dung sai” nén hay thu hẹp này để đo sự phù hợp là phù hợp hơn cho thực tiễn kiểm soát quá trình hoặc chấp nhận nội bộ. Chúng không thích hợp cho các quy định kỹ thuật.

8.5.1.7. Nhu cầu thực tiễn

Ví dụ này ch ra nhu cầu thiết lập các quy định kỹ thuật và mức cht lượng thực tế cho mục đích lấy mẫu, đưa tr v việc phân loại sự không phù hợp và câu hỏi về độ sai lệch khỏi sự phù hợp nghiêm trọng đến đâu. Các quy định kỹ thuật cần phải thực tế và mức chất lượng cần chắc chắn và phản ánh đúng phân loại sự không phù hợp cũng như tầm quan trọng tương đối của nó.

Những cơ sở phổ biến nhất dùng cho việc thiết lập AQL như sau:

a) Dữ liệu trong quá khứ: Dữ liệu quá khứ được sử dụng đ ước lượng trung bình quá trình. Khi đó AQL được thiết lập tại, hoặc gần với, ước lượng thu được.

b) Đánh giá theo kinh nghiệm: AQL được thiết lập về mc độ thỏa mãn đã biết đối với cá thể tương tự.

c) Đánh giá kỹ thuật: AQL dựa trên ước lượng “kỹ thuật” về yêu cầu chất lượng đối với chức năng, hiệu năng, tui thọ, khả năng đổi lẫn, v.v…

d) Theo thực nghiệm: AQL được thiết lập theo dự kiến và sau đó được điều chỉnh theo hiệu năng và kinh nghiệm.

e) Tổng chi phí tối thiểu: AQL dựa trên phân tích “chi phí cho chất lượng” so với “chi phí khi không có chất lượng”.

f) Hiểu biết về sản phẩm và về nhà cung cấp: AQL dựa trên “kinh nghiệm”.

Các cơ sở này có thể được sử dụng riêng rẽ hoặc kết hợp.

8.5.1.8. AQL ưu tiên

Cuối cùng, tính đến tất cả các yếu tố này, ta mong muốn chọn một trong các giá trị AQL cho trong bảng để sử dụng nếu có thể, vì nếu không áp dụng được các bảng thì phương án hoặc chương trình lấy mẫu đặc biệt có thể được thiết kế. Các giá trị AQL ưu tiên gần như tạo thành cấp số nhân với công bội khoảng 1,6 vì vậy hiếm khi không tìm được giá trị nào phù hợp.

8.5.2. LQ  CRQ

Tương tự với AQL và PRQ, LQ và CRQ có thể được coi là các ch số tương đương có giá trị quy định, cho mục đích lấy mẫu, thể hiện mức chất lượng “có thể bị phản đối”, mức này ch có khả năng được chấp nhận nh.

Quá trình thiết lập các mức chất lượng này tương tự như đối với AQL, ngoại trừ trường hợp này ta xét mức có thế chấp nhận mà, nếu tồn tại, có thể gây các vn đề vận hành, gia tăng chi phí, v.v… Các mức này sẽ đi kèm với mức được chn ứng với rủi ro của người tiêu dùng và cn được quyết định phù hợp.

8.6. Bậc kiểm tra (IL) – Quan hệ cỡ mẫu/cỡ lô

8.6.1. Bậc kiểm tra

Bậc kiểm tra là một ch số về lượng kim tra tương đối sử dụng trong chương trình lấy mẫu và liên hệ c mẫu với c lô, từ đó liên hệ tới sự phân biệt giữa chất lượng “tốt” và “kém”. Ví dụ, TCVN 7790-1 (ISO 2859-1) đưa ra bẩy bậc kiểm tra, trong khi TCVN 8243-1 (ISO 3951-1) đưa ra năm bậc.

Với việc thiết lập AQL (hoặc PRQ), “bậc kiểm tra” được xác định trong Bảng 1 của TCVN 7790-1 (ISO 2859-1) hoặc Bảng 1 của TCVN 8243-1 (ISO 3951-1), hoặc tổng quát hơn, bằng cách xem xét mức chất lượng nào ch có cơ hội nhỏ được chấp nhận nếu lô có cht lượng như vậy được giao nộp đ kim tra, nghĩa là LQ hoặc CRQ. Đường OC cho phương án lấy mẫu, trong tiêu chuẩn lấy mẫu chấp nhận cơ bn [TCVN 7790-1 (ISO 2859-1) hoặc TCVN 8243-1 (ISO 3951-1)] khi đó được khảo sát để xác định phương án lấy mẫu nào đáp ứng chặt chẽ nhất yêu cầu chung và chữ mã c mẫu của nó được ghi lại. Bng 1 của tiêu chuẩn áp dụng [TCVN 7790-1 (ISO 2859-1) hoặc TCVN 8243-1 (ISO 3951-1)] đưa ra dãy cỡ lô tương ứng với chữ mã này cho các bậc kiểm tra khác nhau và ch thị dãy cỡ lô ưu tiên cần sử dụng. Bậc kiểm tra II được coi là thích hợp cho nhiều ứng dụng.

CHÚ THÍCH 1: TCVN 7790-5 (ISO 2859-5) và ISO 3951-5 đưa ra các phương áp lấy mẫu liên tiếp tương ứng với tiêu chuẩn lấy mẫu chp nhận TCVN 7790-1 (ISO 2859-1) và TCVN 8243-1 (ISO 3951-1), trong đó áp dụng các bậc kiểm tra. Mặt khác, TCVN 9601:2013 (ISO 8422:2006) [xem TCVN 9946-2 (ISO/TR 8550-2)] và ISO 8423:2008 [xem TCVN 9946-3 (ISO/TR 8550-3)] đưa ra phương án lấy mẫu liên tiếp xác định theo PRP và CRP trong đó, vì vậy, bậc kim tra không áp dụng.

CHÚ THÍCH 2: Luôn có khả năng xử lý các trưng hợp đặc biệt bằng cách n định chữ mã cố định bt k c lô, ví dụ nếu yêu cầu đường OC xác định. Mặc dù thiết kế “phương án đặc biệt” cho một trưng hợp cụ th nm ngoài phạm vi của tiêu chuẩn này nhưng có thể tránh sự nh cậy này trong phần lớn các trường hợp.

CHÚ THÍCH 3: Có khả năng bậc kim tra “thấp” như S-1, có thể được sử dụng vì các lý do kinh tế hoặc vì phép thử là phá hủy. Trong những trường hợp này, có thể phải chịu sự phân biệt. Tuy nhiên, nếu hồ sơ được duy trì cho loạt các lô liên tc thì mu cộng dồn có thể cho thấy rằng CR được chấp nhận hơn.

CHÚ THÍCH 4: Quy trình A trong ISO 2859-2 không xác định phương án lấy mẫu theo bậc kiểm tra vì quy trình này đ dùng cho lô riêng biệt trong đó cả nhà sản xuất và người tiêu dùng đều quan tâm đến LQ.

Nếu không tìm được đường OC nào đáp ứng các giá trị AQL và LQ yêu cầu thì cần thiết xét xem yêu cầu đó có phải là thiết yếu hay không. Nếu CRQ (hoặc LQ) không được giảm nhẹ thì cách duy nhất là thắt chặt LQ, với hệ qu làm tăng rủi ro của nhà sản xuất.

Với chữ mã c mẫu đã được thiết lập, nếu thấy rng không một bậc kiểm tra nào chứa chữ mã đó dùng cho c lô dự kiến thì sẽ cần xem xét và sửa đổi yêu cầu hoặc, nếu không thực hiện được thì quy định chữ mã c mẫu không cần bậc kiểm tra. Nếu phương án đề cập sau dẫn đến cỡ mẫu vượt quá c lô thì cần thực hiện kim tra 100 %.

8.6.2. Bình luận về quan hệ cỡ mẫu/cỡ lô

Không có mối quan hệ toán học đơn gin nào giữa c mẫu và cỡ lô. Lý do hầu hết các chương trình lấy mẫu liên hệ c mẫu với cỡ lô là nguyên tắc chấp nhận rằng cần thu được nhiều bằng chứng hơn để xác định khả năng chp nhận những lô lớn hơn. Với điều kiện cỡ mẫu nhỏ hơn so với cỡ lô, vì mục đích thực tiễn, có th b qua c lô khi xây dựng đường OC cho phương án ly mẫu. Việc chọn phương án lấy mẫu và cỡ mẫu phụ thuộc vào tính thuần nhất của lô. Các mẫu lớn hơn cần thiết khi không có tính thuần nhất. Phương án theo AQL đòi hỏi các lô thuần nhất. Phương án theo LQ đòi hi các mẫu lớn hơn. Đối với chương trình kiểm tra xác định theo AQL, các lô cần được hình thành trong những điều kiện tương tự về cơ bản và không nên “pha trộn”. Mặc dù đối với lô nh, ảnh hưởng của cỡ lô lớn hơn nhưng cỡ mẫu tuyệt đối quan trọng hơn tỷ lệ mẫu trong .

Trên quan điểm kiểm tra lấy mẫu, có lợi thế đối với lô lớn, với điều kiện duy trì tính thuần nhất, vì khi đó có thể và tiết kiệm đ lấy mẫu lớn trong khi vẫn duy trì t lệ lô  mẫu lớn, nhờ đó có được sự phân biệt tốt hơn. Ngoài ra, đối với hiệu lực nhất định, c mẫu sẽ không tăng nhanh như cỡ lô và s không tăng chút nào sau một c lô nhất định. Tuy nhiên, có một số lý do cho việc giới hạn cỡ lô:

a) việc hình thành lô lớn hơn có thể dẫn đến việc bao gồm chất lượng khác nhau nhiều;

b) tốc độ sản xuất hay cung ứng có thể quá chậm để có thể hình thành các lô lớn;

c) việc lưu kho và xử lý có thể ngăn ngừa hình thành các lô lớn;

d) khả năng lấy mẫu ngẫu nhiên khó khăn với lô lớn;

e) hệ quả kinh tế của việc không chấp nhận lô lớn về mặt loại b, làm lại và kiểm tra thêm có th lớn.

8.7. Kim tra thanh lọc đối với lấy mẫu từng lô – AOQL

Khi tất c các cá thể trong lô có cùng một xác suất tr thành không phù hợp, phương án lấy mẫu chấp nhận lô không ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng các lô được kiểm tra ngoại trừ việc thay thế các cá thể không phù hợp tìm thấy trong mẫu. Nếu 3 % sản phẩm không phù hợp trước khi giao nộp để kiểm tra lấy mẫu, thì khoảng 3 % sẽ không phù hợp sau khi kiểm tra lấy mẫu. Những ảnh hưởng chính của phương án lấy mẫu lên chất lượng sản phẩm là gián tiếp và xuất phát từ những ảnh hưởng của lô không được chấp nhận lên việc sản xuất tiếp theo, ví dụ như thái độ của người vận hành và các bước được lãnh đạo thực hiện đ ci tiến quá trình.

Kiểm tra thanh lọc đối với lấy mẫu theo lô là sự kết hợp giữa kiểm tra lấy mẫu và kiểm tra 100 % (hoặc “sàng Ic”) với mong muốn kim soát trực tiếp chất lượng sản phẩm đạt thông qua kiểm tra. Tất cả các lô được kim tra lấy mẫu trừ các lô không được chấp nhận trong kiểm tra lấy mẫu có thể được kiểm tra 100 %. Bất kỳ cá thể không phù hợp nào tìm thấy đều được loại ra và có thể được thay bng cá th phù hợp. Chất lượng đầu ra trung bình (AOQ) là kết quả của kiểm tra thanh lọc này sẽ tốt hơn cht lượng đầu vào. Cần nhấn mạnh là AOQ là trung bình của nhiều lò và không gắn với lô riêng lẻ nào.

Khi chất lượng đầu vào hoàn hảo, s không cần thanh lọc và chất lượng đầu ra sẽ hoàn hảo. Khi chất lượng đầu vào rất kém, việc kiểm tra sẽ áp dụng cho tất cả các lô và vì vậy chất lượng đầu ra theo lý thuyết vẫn hoàn ho, mặc dù với chi phí kiểm tra lớn. Khi mức chất lượng đầu vào, tính theo phần trăm không phù hợp, tăng từ 0 % lên 100 %, AOQ tăng từ “không”, đạt giới hạn trên và sau đó lại giảm về “không”. Giới hạn chất lượng đầu ra trung bình (AOQL) là giới hạn trên này của AOQ.

Trong khi kiểm tra thanh lọc rõ ràng đặt ra áp lực nhất định lên nhà cung cấp để cải tiến chất lượng (giả định nhà cung cấp tiến hành việc kiểm tra), nhưng yêu cầu đánh giá ảnh hưởng phần nào vẫn là lý tưng. Việc tính toán AOQ giả định phân loại hoàn hảo 100 %, trong một số trường hợp, việc thay thế sản phẩm không phù hợp bằng sn phẩm tốt (mới hoặc làm lại). Vì sự hoàn hảo không có khả năng xảy ra trong thực tế nên kết quả của quá trình kiểm tra và tính toán cần được xem xét cn trọng, vì kết quả tính toán có thể hơi lạc quan.

Vấn đề chính của kiểm tra thanh lọc là nhà cung cấp có thể có khuynh hướng dựa vào sự thanh lọc, đặc biệt nếu nó được thực hiện bởi người mua và có thể không nỗ lực thích đáng đ cải tiến chất lượng quá trình.

Một vn đề khác gắn với loại hình kiểm tra này là áp lực và chi phí đặt lên bộ phận kiểm tra. Bất cứ khi nào lô được kết luận là không được chấp nhận, khối lượng công việc có thể gia tăng đáng kể và vì thế nhu cầu về nguồn nhân lực, thiết bị “chuẩn” và khả năng thông qua khó có thể duy trì. Điều này có thể ảnh hưởng bất lợi đến hiệu quả kiểm tra 100 % và rất có khả năng ảnh hưởng đến chất lượng kiểm tra “ban đầu”. Tình huống này có thể tạo ra sự thúc giục cắt góc có ý thức hay tiềm thức, với hậu quả suy giảm về chất lượng. Tuy nhiên, AOQL có thể là một khái niệm hữu ích khi đánh giá ảnh hưởng của kiểm tra thanh lọc lên chất lượng đầu ra cũng như khuyến khích tạo ra chất lượng tốt ngay từ đầu.

Không phải tất c các hệ thống xác định theo AOQL đều chịu những bất lợi này. ISO 18414 là hệ thống lấy mẫu chấp nhận xác định theo AOQL dùng cho kiểm tra định tính. Hệ thống này chỉ đòi hỏi kiểm tra 100 % lô không được chấp nhận khi đó là lô đầu tiên trong loạt hoặc khi lô trước đó không được chấp nhận. Do đó, bằng cách chỉ giao nộp lô lớn khi lô trước đó đã được chấp nhận, có thể tránh được việc kiểm tra 100 % lô lớn.

AOQL cũng có thể được dùng làm cơ sở cho việc so sánh và lựa chọn phương án lấy mẫu cho một ứng dụng. Trường hợp hệ số AOQL không được cho trong tiêu chuẩn, khi kiểm tra 100 % và việc thay thế cá thể không phù hợp bằng cá thể phù hợp là bắt buộc đối với tất c các lô không được chấp nhận, AOQL có thể được tính từ giá trị AOQ bằng cách sử dụng phép tính gần đúng:

AOQ = Pa(px 100p,

trong đó

p là tỷ lệ không phù hợp

Pa(p) là xác sut chấp nhận ở mức cht lượng p.

Từ công thức này, có thể thu được AOQ, và sau đó là AOQL, theo phần trăm không phù hợp. Trên thực tế, phép gần đúng này có thể là ch số tốt hơn tính toán chi tiết khi việc thanh lọc không được áp dụng một cách hiệu quả.

9. So sánh các phương pháp kiểm tra lấy mẫu

9.1. Sử dụng đường OC cho việc so sánh các phương án lấy mẫu

Đường OC cung cấp cơ sở tốt cho việc so sánh trực tiếp giữa các phương án lấy mẫu vì mỗi phương án có một đường OC riêng. Một cách khác, so sánh nào đó có thể được thực hiện bằng cách sử dụng hệ số rút ra từ đường OC, ví dụ AOQL (xem 8.7), t lệ phân biệt (xem 9.2) hoặc c mẫu trung bình (xem 9.3.2).

9.2. T lệ phân biệt (DR)

Phương án kiểm tra lấy mẫu hoàn hảo có thể phân biệt tuyệt đối tại phần trăm không phù hợp bằng giới hạn chất lượng chấp nhận. Đường OC sẽ là đường thẳng đứng tại AQL. Đối với chất lượng có phần trăm không phù hợp thấp hơn AQL, sẽ là vùng chấp nhận toàn bộ, còn đối với chất lượng có phần trăm không phù hợp tốt hơn AQL sẽ là vùng không chấp nhận toàn bộ. Hình 3 thể hiện đường OC lý tưng. Lý tưng này không thể đạt được nếu kiểm tra ít hơn 100 % hoàn hảo.

Khi đưa vào áp dụng phương pháp kiểm tra lấy mu, không còn khả năng phân biệt tuyệt đối giữa chất lượng “chấp nhận được” và “không chấp nhận được”. Hậu qu của việc không kiểm tra từng cá thể được phản ánh qua độ dốc của đường OC, cụ thể là giá trị tuyệt đối của độ dốc của phần đường cong nm giữa PRP và CRP, được gọi là tỷ lệ phân biệt (DR). Độ dốc này càng thẳng đứng thì sự phân biệt của phương án càng lớn. Do đó, sự so sánh của độ dốc  phần này của đường OC cho phép so sánh trực tiếp hiệu lực của các phương án lấy mẫu về khả năng phân biệt.

Khi các đường OC nằm  các trang khác nhau của tài liệu, hoặc theo thang đo khác nhau, sẽ không dễ dàng so sánh trực tiếp chúng và khi đó có thể sử dụng phương án thay thế số học dưới đây. Phương pháp này sử dụng độ dốc của đường thẳng nối PRP và CRP. Đường thẳng này là xấp x thỏa mãn phần đó của đường OC.

CHÚ DẪN

x phần trăm không phù hợp của quá trình

phần trăm các lô dự kiến được chấp nhận

Hình 3 – Đường đặc trưng hiệu qu lý tưng

Hệ số (CRQ)/(PRQ) tạo cho độ dốc này như một chỉ số bằng số về tỷ lệ phân biệt, số này càng lớn thì phương án lấy mẫu càng ít khả năng phân biệt. Chỉ số này có thể sử dụng cho việc lựa chọn phương án cũng như so sánh hoặc cho mục đích bất kỳ khác dựa trên đường OC.

Tuy nhiên, các phương án lấy mẫu có cùng tỷ lệ phân biệt không nhất thiết tương đương nhau. Ví dụ, sử dụng đường OC dùng cho phương án với AQL 1 % và chữ mã K có tỷ lệ phân biệt tương tự với đường cong dùng cho phương án với AQL 4 $ và chữ mã M, nhưng điểm CR và PR khá khác biệt. Trong ứng dụng phổ biến nhất của phương pháp này, các đường cong có điểm PR và mức chất lượng tương tự được so sánh về mức độ phân biệt của chúng theo cht lượng kém, nghĩa là độ biến động trong rủi ro của người tiêu dùng.

9.3. So sánh lấy mẫu một lần, hai lần, nhiều lần và liên tiếp

9.3.1. Các phương án tương đương

9.3.1.1. Đặc trưng cần tính đến

Đối với hầu hết các phương án lấy mẫu một lần, có thể tìm phương án lấy mẫu hai lần, nhiều lần hoặc liên tiếp có đường đặc trưng hiệu quả gần với của phương án ly mẫu một lần. Trong những trường hợp như vậy, không có lý do gì để chọn giữa lấy mẫu một lần, hai lần, nhiều lần hay liên tiếp vì sự khác biệt giữa các đường đặc trưng hiệu quả. Đối với mọi tình huống có thể có, cũng không có lý do gì để ưu tiên phương án này hơn phương án khác. Đôi khi việc cân đối giữa ưu và nhược điểm thiên về ủng hộ quy trình lấy mẫu này hoặc đôi khi là quy trình khác. Các đặc trưng cần được tính đến được nêu dưới đây.

a) Tính phức tạp. Lấy mẫu một lần là phương án dễ mô t và thực thi nhất. Lấy mẫu hai lần đòi hỏi quản lý nhiều hơn đ bố trí cho việc cung cấp mẫu lần hai khi cần. Lấy mẫu nhiều lần và liên tiếp rõ ràng là còn phức tạp hơn. Đôi khi, sự hp dn của tính đơn giản là xem xét chính khi lựa chọn phương án lấy mẫu. Mặt khác, sẽ có những trường hợp biên khi có tâm lý là sẽ có kh năng lấy được mẫu th hai dẫn đến thiên v phương án lấy mẫu hai lần.

b) Độ biến động về lượng kiểm tra lấy mẫu. Trong lấy mẫu một lần, cỡ mẫu được cố định và lượng nỗ lực kiểm tra cần đạt đến quyết định được biết trước. Đối với các loại lấy mẫu khác, số cá th thử thay đổi theo kết quả thu được từ các mẫu trước đó. Có thể tính trung bình lượng kiểm tra lấy mẫu và trung bình chi phí kiểm tra cho một chất lượng đầu vào cho trước bt kỳ. Giá trị này thay đổi theo chất lượng, đạt thấp nhất đối với c chất lượng rất tốt và rất kém. Ngoài độ không đm bảo kèm theo cht lượng đầu vào chưa biết, ngay c khi chất lượng đầu vào đã biết, còn có độ không đảm bảo do độ biến động về lượng kiểm tra lấy mẫu trong trung bình này. Độ không đm bảo này có thể dẫn đến vấn đề sắp xếp đủ nguồn lực sẵn có cho việc kim tra yêu cu. Nếu không có đủ nguồn lực, kết quả sẽ bị chậm trễ. Trong trường hợp ngược lại, sẽ có việc sử dụng không hiệu quả các nguồn lực. Trong một số tình huống, tải kiểm tra biến động sẽ thường được coi là chi phí nh trả cho việc giảm đáng kể tổng chi phí kiểm tra trung bình.

c) Khó khăn trong việc lấy mẫu cá thể. Đôi khi dễ dàng ly mẫu thứ hai và lấy hai mẫu không khó khăn hơn so với với lấy một mẫu có cỡ kết hợp. Tuy nhiên,  thời điểm khác, nảy sinh tình huống trong đó việc ly cá thể mẫu là một phn lớn của công việc kiểm tra và  đây, có sự xáo trộn lô đ lấy một mẫu, sẽ khó khả thi khi xáo trộn lại lô để lấy một mẫu khác. Trong trường hợp này, lấy mẫu một lần thường là phương án tốt nhất. Tất nhiên có khả năng thay thế bằng ly mẫu có cỡ lớn nhất cần thiết và sau đó kiểm tra theo phương án hai lần, nhiều lần hoặc liên tiếp đã chọn. Việc này có th ít tiết kiệm chi phí hơn so với phương án một lần do vấn đề về trả lại lô các cá thể không kiểm tra.

d) Khoảng thời gian thử. Nếu thử nghiệm có thời gian dài và có thể áp dụng đồng thời cho nhiều cá th thì thực hiện đồng thời thường tốt hơn là tìm kiếm rủi ro, sau khi thử mẫu thứ nhất có kết quả là không kết luận được và cần đến mẫu thứ hai, hai thậm chí nhiều hơn, do đó ít nhất là tốn gấp đôi thời gian. Đây là một trường hợp khác mà lấy mẫu một lần là phương án tốt nhất, với điều kiện là tt c toàn bộ cỡ mẫu một lần có thể thử đồng thời. Tuy nhiên, nếu một lần ch có thể thử một hoặc hai vật phẩm thì lấy mẫu nhiều lần hoặc liên tiếp có th tốt hơn. (Xem Ví dụ 6 và 7  9.3.1.2 và 9.3.1.3)

e) Sự không phù hợp phức hợp. Sản phẩm càng phức tạp về số lượng không phù hợp và số loại không phù hợp có thể có thì lấy mẫu hai lần hoặc nhiều lần càng tr nên phức tạp. Việc sử dụng hiệu quả lao động và thiết b kiểm tra sẽ khó khăn nếu mẫu thứ nhất cần phải được kiểm tra tất cả các đặc tính, mẫu thứ hai ch kiểm tra một số đặc tính và mẫu thứ ba có thể chỉ kiểm tra một số trong số các đặc tính đó. Nói chung, có thể nói rằng kiểm tra phức tạp thiên về phương án lấy mẫu đơn giản, trong khi kiểm tra đơn gin hơn có thể xứng với phương án lấy mẫu phức tạp hơn.

Đường đặc trưng hiệu quả (đối với phương án lấy mẫu một lần có cỡ mẫu 200, số chp nhận 3 và số bác bỏ 4) và phương án lấy mẫu hai lần và nhiều lần tương ứng được th hiện trên Hình 4. Mức độ phù hợp không được chính xác nhưng đủ tốt cho hầu hết các mục đích thực tiễn. Phương án lấy mẫu liên tiếp cũng phù hợp với đường OC của phương án lấy mẫu một ln nhưng không được thể hiện để tránh làm rối. Các đường đặc trưng hiệu quả của phương án lấy mẫu liên tiếp và một lần hầu như không th phân biệt được với nhau.

9.3.1.2. Ví dụ 6

Thịt hộp được th về sự duy trì cht lượng bằng cách lưu giữ một số hộp trong 3 tuần  điều kiện khí quyển nhất định.

Đ thu được đường OC mong muốn, lựa chọn có thể nằm giữa phương án lấy mẫu một lần với mẫu gồm 80 hộp, phương án lấy mẫu hai lần với mỗi mẫu gồm 50 hộp và phương án lấy mẫu nhiều lần năm giai đoạn với mỗi mẫu gồm 20 hộp. Nếu sử dụng lấy mẫu một lần thì 3 tuần sau khi bắt đầu thử nghiệm sẽ có kết quả; nếu lấy mẫu hai lần, kết quả có thể có trong 3 tuần nhưng thay vào đó có thể cần 6 tuần; nếu lấy mẫu nhiều lần, có thể cần đến gần 5 tháng.

Trong những trường hợp như vậy, lấy mẫu một ln có thể sẽ được lựa chọn.

9.3.1.2. Ví dụ 7

Một kiểm tra phá hủy cần được thực hiện. Tất c các vật phẩm trong lô có sẵn  trạm thử nghiệm và thiết bị thử mỗi lần chỉ có thể lấy một vật phẩm. Do chi phí chính của việc thử là phá hủy vật phẩm nên mong muốn hủy càng ít càng tốt phù hợp với đường OC mong muốn.

Vì mỗi lần thử được một vật phẩm trong mẫu nên việc sử dụng lấy mẫu liên tiếp hơn là lấy mẫu một lần có thể sẽ tiết kiệm thời gian cũng như giảm c mẫu trung bình. Điều này rất đáng được cân nhắc.

9.3.2. Cỡ mẫu trung bình

Đ so sánh giữa lấy mẫu một lần, hai lần, nhiều lần và liên tiếp, có thể hữu ích khi xem xét cỡ mẫu trung bình cần thiết trong một loạt lấy mẫu dài  các mức chất lượng sản phẩm trung bình khác nhau. Đường c mẫu trung bình chỉ thị hiệu suất tương đối của các hệ thống lấy mẫu khác nhau. Những đường như vậy chỉ ra trung bình số lượng cá thể cần kiểm tra trước khi đạt đến quyết định chấp nhận hay loại bỏ ở một phạm vi mức chất lượng sản phẩm. Hình 5 thể hiện c mẫu trung bình cho một bộ các phương án lấy mẫu một lần, hai lần, nhiều lần và liên tiếp tương ứng nêu trong Bng 3 và mô t trên Hình 4.

Bảng 3 – Các phương án lấy mẫu định tính tương ứng đối vi chữ mã L, AQL 0,65 %

Loại phương án lấy mẫu

C mẫu

Số chp nhận/loại bỏ

Ac

Re

Một lần C mẫu n = 200

3

4

Hai lần C mẫu thứ nhất n = 125

1

3

  Cỡ mẫu kết hợp thứ nhất và thứ hai n = 250

4

5

Nhiều lần Mu thứ nhn = 50

# a

3

  C mu cộng dồn n = 100

0

3

  Cỡ mẫu cộng dồn n = 150

1

4

  Cỡ mẫu cộng dồn n = 200

2

5

  Cỡ mẫu cộng dồn n = 250

4

5

Liên tiếp hA = 1,383, hR = 1,582, g = 0,0161, nt = 315 [xem TCVN 7790-5 (ISO 2859-5)].
a Không được phép chấp nhận ở cỡ mẫu này.

Trung bình, số cá thể cần kiểm tra trước khi đi đến quyết định là lớn nhất khi sử dụng lấy mẫu một lần. Cỡ mẫu giảm nhiều nhất khi sử dụng lấy mẫu hai lần, nhiều lần hoặc liên tiếp xảy ra khi lô có chất lượng rất tốt hoặc rất kém.

Đối với chất lượng tốt hoặc kém, tiết kiệm trung bình trong kiểm tra có thể lớn nhưng số lượng cá thể thực tế được kiểm tra đối với một lô cụ thể khi sử dụng phương án lấy mẫu hai lần, nhiều lần hoặc liên tiếp có th vượt quá số lượng cần cho phương án một lần tương ứng. Điều này có nhiều khả năng xảy ra khi chất lượng ở giá trị trung gian, ví dụ bằng hai hoặc ba lần AQL.

Vì những lý do này, lấy mẫu một lần có thể được ưa dùng trong một số trường hợp, ví dụ, khi khoảng thời gian thử kéo dài và tất c các cá thể có thể được th đồng thời. Mặt khác, khi ch có th tiến hành thử mỗi lần một cá thể hoặc phép thứ phá hủy thì lấy mẫu hai lần, nhiều lần hoặc liên tiếp có thể có lợi thế đáng kể (xem Ví dụ 4 và 5  8.2.4).

Đối với phương án hai lần và nhiều lần, có một giới hạn trên cho số lượng cá thể cần kiểm tra. Đối với phương án liên tiếp, không có giới hạn như vậy trừ khi áp dụng nguyên tắc cắt đ hạn chế số lượng cá thể kiểm tra. TCVN 7790-5 (ISO 2859-5) và ISO 3951-5 đưa ra cho việc cắt cỡ mẫu  khoảng 1,5 lần c mu một lần tương ứng.

CHÚ THÍCH: Đường OC của phương án liên tiếp hầu như không th phân biệt với đường OC của phương án một lần.

CHÚ DN

X chất lượng sn phẩm giao nộp tính theo phần trăm không phù hợp, 100p

phần trăm các lô dự kiến được chấp nhận, Pa

một lần và liên tiếp

hai lần

nhiều ln

Hình 4 – So sánh các đường đặc trưng hiệu qu đối với phương án lấy mẫu một lần, hai ln, nhiều ln và liên tiếp

CHÚ DẪN

X chất lượng sn phẩm giao nộp tính theo phần trăm không phù hợp, 100p

Y số mu trung bình

một lần

hai lần

nhiều lần

liên tiếp

Hình 5 – So sánh cỡ mẫu trung bình đối với phương án lấy mu một lần, hai lần, nhiều lần và liên tiếp

Lấy mẫu hai ln, nhiều lần và liên tiếp tạo cơ hội tiết kiệm đáng k về cỡ mẫu nhưng chúng đòi hỏi nhiều sự kiểm soát quản lý hơn. Khi có sẵn thiết bị sử dụng bán tự động, lấy mẫu liên tiếp tự động cho phép tăng hiệu suất và tính kinh tế, đặc biệt khi thực hiện phép thử phá hủy.

Một yếu tố cản tr việc ứng dụng rộng hơn các phương án ly mẫu hai lần, nhiều lần và liên tiếp là mối lo ngại rằng cỡ mẫu một lần có thể bị vượt quá. Xác suất xảy ra việc này có thể không cao như nghi ngờ. Hình 6 thể hiện xác suất là hàm của mức chất lượng đầu vào đối với các phương án chấp nhận trong Bảng 3. Có thể thấy rằng, đặc biệt đối với các mức chất lượng trung gian, có một sự giảm đáng k đối với xác sut b vượt quá c mẫu cho lấy mẫu một lần khi chuyển từ lấy mẫu hai lần sang nhiều lần sang liên tiếp.

CHÚ DẪN

X phần trăm không phù hợp của quá trình

xác suất bị vượt quá cỡ mẫu trong lấy mu một lần

hai lần

nhiu lần

liên tiếp

Hình 6 – So sánh xác suất b vượt quá cỡ mẫu trong lấy mẫu một lần đối với phương án lấy mẫu hai lần, nhiều lần và liên tiếp

10. Các phương pháp khác đôi khi được chấp nhận trong thực tế

10.1. Kiểm tra 100%

Nhiều nhà máy hiện đại kết hợp các phương pháp tự động kiểm tra chất lượng sn phẩm trên mỗi cá thể được sản xuất. Những thực hành tương tự được chp nhận đ loại bỏ cá thể không phù hợp khỏi lô chấp nhận bằng cách lấy mẫu. Tuy nhiên, có thể cần sự theo dõi độc lập nhất định để đảm bo đ phòng những trục trặc của hệ thống kiểm tra dẫn đến việc tiếp tục sản xuất và “chấp nhận” sn phẩm không phù hợp. Trong một số trường hợp, việc kiểm soát quá trình thực tế, hoặc thành phần khác của hệ thống chất lượng, có thể cung cấp việc theo dõi này.

10.2. Mu đột xuất

Thực hành lấy mẫu đột xuất, một kỹ thuật lấy mẫu không theo kế hoạch cố định, thường không được tán thành vì nó không đưa ra sự kim soát thống kê và do đó không thể tin cậy, không kinh tế và không hiệu quả đối với mục đích chấp nhận và kiểm soát. Tuy nhiên, kiểu ly mẫu này đôi khi được sử dụng trong hệ thống “hồi tiếp về phía trước” trong đó cá thể không phù hợp không gây bất tiện thực sự  công đoạn tiếp theo.  những lý do này, thực hành này thường giới hạn  các hoạt động “nội bộ”.

Mẫu đột xuất gồm từ 2 đến 20 cá thể [xem các phương án lấy mẫu của TCVN 7790-1 (ISO 2859-1) với chữ mã từ A đến F  bậc kim tra II] có thể được sử dụng đ thiết lập rằng chuyến hàng có các cá thể tương tự như đặt hàng, đặc biệt là khi tất cả các cá thể trong mẫu đột xuất nh phù hợp với mô t và quy định kỹ thuật của cá thể.

Mu đột xuất không có các đặc trưng thống kê của mẫu ngẫu nhiên và phương án lấy mẫu có chuẩn mực chấp nhận đích thực. Chỉ nên sử dụng lấy mẫu đột xuất khi

a) nhà sản xuất và cá thể có lịch sử tốt, hoặc

b) các điều kiện đảm bảo người nhận không thể đóng góp vào việc kiểm soát hoặc sửa chữa quá trình của nhà cung cấp và sự không phù hợp có tính chất dễ nhận biết và cá thể không phù hợp được thay thế trong cụm lắp ráp hoặc thử nghiệm tiếp theo.

Lấy mẫu đột xuất không thích hợp đối với cá thể đắt tiền mà sự bảo hành của nó không cứu văn được chấp nhận lô.

Mẫu đột xuất được phát hiện có bt kỳ cá th không phù hợp nào là tín hiệu đ chuyn sang sử dụng phương án lấy mẫu từ tiêu chuẩn lấy mẫu chấp nhận phù hợp, và tuân thủ quá trình quyết định thông thường mà mẫu như vậy chỉ ra.

10.3. Lô sản xuất một lần

Tình huống bất thường xảy ra khi một lô sản xuất đặc biệt, đơn nhất hoặc “một lần” không được chấp nhn bởi phương án lấy mẫu. Việc giao nộp lại của chính lô đó sau khi kiểm tra và/hoặc sửa chữa có nhiều cá thể không phù hợp hơn mong đợi, hoặc giao nộp lô thay thế, có khả năng dn đến kết quả chp nhận cuối cùng cho rủi ro lấy mẫu cộng dồn. Các phương án ly mu được thiết kế để giảm xác suất chấp nhận lô có số lượng không phù hợp vượt quá, cho dù lô đó được giao nộp một lần hoặc giao nộp lại nhiều lần. Quy trình này thay đi quan hệ giữa cỡ mẫu và số chấp nhận cho mỗi lần giao nộp lại liên tục lô bị bác b và giới hạn số lần giao nộp lại cho phép. Nói chung, vấn đề chính với các phương án lấy mẫu như vậy là cần một lượng lấy mẫu và kiểm tra lớn.

10.4. Lấy mẫu đánh giá

Trong trường hợp nhà cung cấp có hệ thống chất lượng hoạt động, ví dụ như bộ tiêu chuẩn TCVN ISO 9000 (ISO 9000), thì có thể sử dụng các kỹ thuật lấy mẫu trong quá trình xem xét hoặc đánh giá việc sản xuất hoặc hệ thống chất lượng. [Xem TCVN 7790-4 (ISO 2859-4)].  đây người đánh giá kim tra xem hồ sơ hoặc tình trạng của thiết bị, nguyên vật liệu trong quá trình hoặc nguyên vật liệu lưu kho có được nhận biết thích hợp và  mức cht lượng chp nhận hay không. Việc này có thể xem là lấy mẫu lô tách biệt từ một quá trình liên tục, phương án được chn cho rủi ro của nhà sản xuất thấp  mức mong muốn (ví dụ 1 % sai số) với t lệ phân biệt bất kỳ, rủi ro của người tiêu dùng và mức cht lượng là cần thiết. Các nguồn lực sẵn có và nỗ lực đòi hi cũng cn được xem xét và chúng có thể ảnh hưởng đến các cân nhắc khác.

Việc không được chấp nhận bởi phương án ly mẫu sẽ được lấy làm ch thị “thoạt nhìn” về sự không phù hợp và là bằng chứng rng khu vực hoạt động chịu trách nhiệm về sự không phù hợp cần được xem xét, điều tra thêm hoặc sửa chữa.

ng dụng lấy mẫu này không được thực hiện như một xác nhận độc lập về chất lượng.

11. Sự liên quan của điều kiện thị trường và sản xuất

11.1. Khái quát

Công việc lựa chọn hệ thống, chương trình hay phương án lấy mẫu phù hợp chịu ảnh hưởng của điều kiện thị trường và sản xuất. Ngoài ra, khía cạnh kinh tế của hệ thống lấy mẫu (như minh họa  4.2), các nguồn lực của tổ chức kim tra và các khía cạnh khác cần được xem xét. Vì vậy, lựa chọn quá trình tr nên phức tạp và hiếm khi có một phương pháp lấy mẫu chp nhận phù hợp với mọi tình huống, dù các tình huống khác nhau có thể dường như tương tự nhau.

Trong TCVN 9946-2 (ISO/TR 8550-2) và TCVN 9946-3 (ISO/TR 8550-3), các bng và hình vẽ được cung cấp cho lấy mẫu định tính và lấy mẫu định lượng tương ứng, để minh họa quá trình lựa chọn hệ thống, chương trình hoặc phương án ly mẫu. Các bảng đưa ra hệ thống, chương trình hoặc phương án lấy mẫu “đề xuất” đ phù hợp với tình huống kiểm tra, điều kiện sản xuất và điều kiện thị trường cho trước.

Các bảng này cần được xem xét và lựa chọn càng nhiều “phương án đề xuất” phù hợp với tình huống càng tốt. Sau đó, các đề xuất này cần được xem xét thông qua hình vẽ đ cuối cùng người sử dụng có thể đạt đến một hệ thống, chương trình hoặc phương án khả thi và kinh tế nhất cho tình huống đó.

11.2. Điều kiện thị trường

Nhiều điều kiện phải được xem xét để lựa chọn hệ thống, chương trình hoặc phương án ly mẫu phù hợp nhất. Đặc biệt là các điều kiện tồn tại trong thị trường công nghiệp  đó sản phẩm được chuyển giao từ nhà sản xuất/nhà cung cấp tới khách hàng/người sử dụng, ví dụ như các điều kiện trong đó:

a) khách hàng có thể tác động người bán đ cải thiện chất lượng (phần trăm phù hợp);

b) bảo hành của cá thể cứu vãn khả năng chấp nhận;

c) chấp nhận số lượng nhỏ cá thể không phù hợp có thể gây tn thất lớn hoặc th hiện nguy cơ nghiêm trọng;

d) đóng cửa nhà máy và tổn thất kinh tế khi lô không được chấp nhận, từ đó ảnh hưởng việc cung ứng cho khách hàng (nguồn đơn);

e) sản phẩm được cung cấp bởi người bán có lịch sử rất tốt.

Mặt khác, các điều kiện trái ngược sau đây có thể tồn tại:

f) người mua không tác động đến chất lượng của sản phẩm được sản xuất;

g) trách nhiệm của người bán chấm dứt khi đơn vị hoặc lô được chấp nhận;

h) đơn vị không phù hợp có ảnh hưởng nhỏ v kinh tế hoặc ảnh hưởng khác và/hoặc chúng dễ dàng được nhn biết và loại bỏ trong quá trình lắp ráp;

i) sẵn có nhiều nguồn sản phm tương đương khác;

j) không có lịch sử về chất lượng hoặc lịch sử chất lượng kém.

11.3. Điều kiện sản xuất

Ngoài các điều kiện thị trường, có các điều kiện sản xuất ảnh hưởng đến tình huống lấy mẫu chấp nhận. Bao gồm:

a) lô là một trong loạt dài các lô liên tục;

b) có lịch sử chất lượng sản xuất tốt, nhất quán;

c) việc lựa chn mẫu ngẫu nhiên đơn giản: tất c các cá thể dễ dàng và sẵn có như nhau để lựa chọn;

d) việc thử nghiệm cá thể hoặc một số thử nghiệm nhiều đặc trưng của một cá thể rất nhanh chóng;

e) việc kiểm tra cá thể rất tốn kém;

f) việc kiểm tra cá thể là phá hủy;

g) cần biết về hình dạng, vị trí và mức độ phân tán phân bố của đặc trưng;

h) phân bố của đặc trưng cần thử đã biết là phân bố chuẩn (hoặc có thể chuyn đi thành chuẩn);

i) lô thuộc loại lô “sản xuất một lần” và là lô duy nhất được làm theo quy định kỹ thuật này (còn được gọi là lô “một lần”).

Cũng có thể có những điều kiện trái ngược với các điều kiện nêu  trên:

j) lô là tách biệt hoặc lấy từ một loạt sản xuất ngắn;

k) chất lượng sản xuất rất biến động và/hoặc kém;

l) lấy mẫu ngẫu nhiên khó khăn hoặc tốn kém;

m) việc thử nghiệm cá thể tốn nhiều thời gian;

n) việc kiểm tra cá thể không tốn kém;

o) việc kiểm tra cá thể không phá hủy;

p) hình dạng và độ phân tán phân bố của đặc trưng không quan trọng;

q) phân bố của đặc trưng chưa biết hoặc biết là không phải phân bố chuẩn.

Ảnh hưng của các xem xét này lên quá trình lựa chọn được đ cập chi tiết hơn trong TCVN 9946-2 (ISO/TR 8550-2) và TCVN 9946-3 (ISO/TR 8550-3).

12. Lựa chọn cuối – Chủ nghĩa hiện thực

Lựa chọn cuối cần dựa trên các yêu cầu của tình huống cũng như nguồn lực của t chức kim tra.

Khi lựa chọn hệ thống, chương trình hay phương án ly mẫu, việc thỏa hiệp gần như không th tránh khỏi đ đạt được tính thực tiễn, sử dụng tiết kiệm các nguồn lực và rủi ro có thể chấp nhận được. Do đó, quá trình lựa chọn có thể tr nên lặp đi lặp lại. Kinh nghiệm trước đó có thể hỗ trợ nhiều cho việc quyết định cái gì là thuận lợi nhất của phương án “đề xuất” được gợi ý.

Nếu phương án lấy mẫu đề xuất ở nỗ lực đầu tiên là không khả thi vì lý do bất kỳ, ví dụ nếu cỡ mẫu quá lớn, thì trước tiên phải kiểm tra để thy rng việc lựa chọn được thực hiện đúng đắn.

Nếu phương án vẫn không khả thi thì tất cả các bên liên quan cần xem xét “mức chất lượng” và “rủi ro lấy mẫu” để đạt được sự hiểu biết và thống nhất về các tham số xét lại sẽ dn đến việc lựa chọn hệ thống và phương án lấy mẫu chấp nhận được.

 

PHỤ LỤC A

(tham khảo)

Ví dụ về mô hình đơn giản để tối đa hóa lợi nhuận trong kiểm tra phá hủy định tính

A.1. Vn đề

Cá thể nhất định được sản xuất theo lô cỡ N cá thể, với chi phí sản xuất một đơn vị là c. Các lô được phân loại bởi nhà sản xuất thành chấp nhận được hoặc dưới chuẩn. Giá bán mỗi cá thể là a đối với các lô được phân loại là chấp nhận được và s đối với các lô được phân loại dưới chuẩn. Thông thường, s nhỏ hơn rất nhiều so với chi phí sản xuất đơn vị c. Mỗi cá thể không phù hợp được bán trong lô phân loại là chấp nhận được dẫn đến chi phí phía dưới d cho nhà sn xuất, ví dụ như chi phí bo hành hoặc tổn thất thiện chí. Chi phí tương ứng trong các lô dưới chuẩn được bán là bằng “không”.

Chất lượng lô là tỷ lệ, p, cá thể không phù hợp trong lô đó. Dữ liệu lịch sử chỉ ra rng p  giá trị thấp p0 đối với tỷ lệ cao f0 của các lô nhưng nó không giải thích được và dường như trôi ngẫu nhiên về giá trị cao hơn p1 đối với phần còn lại f1 = 1 – f0 của các lô. Thử nghiệm các cá thể để xác định xem chúng có tuân thủ các yêu cầu hay không là thử phá hủy, với chi phí thêm t cho mỗi cá thể được thử.

Nhà sản xuất có lựa chọn chỉ dựa vào bằng chứng trong lịch sử và phân loại tất cả các lô thành chấp nhận được hoặc kết hợp giữa bằng chứng lịch sử với một số dữ liệu mẫu từ mỗi lô đ xác định khả năng chấp nhận của các lô riêng l. Mục tiêu của nhà sản xuất là tối đa hóa lợi nhuận trên mỗi cá thể được bán.

A.2. Phương pháp giải quyết

Trước tiên cần xác định các điều kiện theo đó hành động tốt nhất là lấy mẫu. Nếu các điều kiện này được đáp ứng, thì sẽ xác định phương án lấy mẫu tối ưu và lợi nhuận trung bình thu được trên mỗi cá thể bán ra. Cuối cùng, lợi nhuận này được so sánh với lợi nhuận trung bình từ việc không lấy mẫu để xác định chính sách tốt nhất. Đ đơn gin, lấy mẫu định tính một lần được xem xét, nghĩa là phương án với cỡ mẫu n và số chấp nhận Ac, sao cho việc xác định phương án tối ưu rút gọn thành tìm giá trị tối ưu của n và Ac.

A.3. Lợi nhuận trung bình trên mỗi cá thể bán ra là hàm của các tham s của phương án lấy mẫu

Lợi nhuận trung bình từ việc đánh giá lô là chấp nhận được dựa trên mẫu cỡ n khi p = p0 là:

P(n) = (N  n)a  N · c  n  · t -(N  n)d · p0                                               (A.1)

Lợi nhuận trung bình từ việc đánh giá lô là chấp nhận được dựa trên mẫu cỡ n khi p = p1, là:

Q(n) = (N-n)a  N · c  · t  (N  n)d · p1                                                  (A.2)

Lợi nhuận trung bình từ việc đánh giá lô là dưới chuẩn, không xét đến p, là:

R(n) = (N  n)s  N · c  n · t                                                                     (A.3)

Xác suất đạt phép thử chấp nhận định tính được ký hiệu là b0(n,Ac) khi p = p0 và b1(n,Ac) khi p = p1 chú ý rng việc chấp nhận lô mà không lấy mẫu có nghĩa là cả b0(0,0) và b1(0,0) đều bằng 1. Tổng lợi nhuận trung bình trên một lô là:

T(n,Ac) = f0 · b0(n,Ac) · P(n) + f1 · b1(n,Ac) · Q(n)

+ {f0 · [1 – b0(n,Ac) + f1 · [1- b1(n,Ac)] } R(n)                                   (A.4)

Thay các công thức (A.1), (A.2) và (A.3) vào công thức (A.4), sắp xếp lại và chia toàn bộ cho (N -n), tìm được lợi nhuận trung bình trên một cá thể bán ra là:

U(n,Ac) = s – c + f0 · b0(n,AC) · (a – s – d · p0)

f1 · b1(n,AC) · (a – s – d · p1) – n(c + t) / (N – n)                 (A.5)

A.4. Giải pháp khi a – s ³ dp1

Nếu a – s – dp1 ³ 0, kéo theo a  s  dp0 > 0 và giá trị cực đại của U(n,Ac) đối với n và Ac thu được bằng cách làm cho cả b0(n,Ac) và b1(n,Ac) càng lớn càng tốt, nghĩa là bng cách đặt n và Ac bằng 0. Do đó, khi a  s  dp1 ³ 0, lợi nhuận trung bình trên một cá thể bán ra là:

U(0,0) = s – c + f0 · (a – s – d · p0) + f1 (a – s – d · p1)

a – c – d · (f0 · p0 + f1 · p1).

Điều này đạt được bằng cách đánh giá tất cả các lô là chấp nhận được mà không lấy bất kỳ mẫu nào.

Tuy nhiên, nếu U(0,0) không dương thì tốt nhất là không thực hiện hoạt động.

A.5. Giải pháp khi a – s £ dp0

Nếu a – s – dp0 £ 0, kéo theo a – s – dp1 < 0 vì thế U(n,Ac) < s – c < 0 đối với mọi n và Ac, trong trường hợp này thì tốt nht là không thực hiện hoạt động.

A.6 Giải pháp khi dp0 < a  s < dp1

 phạm vi trung gian giữa hai thái cực A.4 và A.5, a – s dp< 0 nhưng a  s  dp> 0, nghĩa là:

(a  s) / (p1 < d < (a  s) / p0.                                                                    (A.6)

Trong phạm vi dải này, không thấy rõ ngay chính sách tối ưu là lấy mẫu hay chp nhận lô mà không ly mẫu. Lg0 = f0 · [(a – s) – d · p0] và g1 = f1 [d · p1 (a – s)]. Khi đó công thức A,5 trở thành:

U(n,Ac) = (s – c) + g0 · b0(n,Ac) – g1 · b1(n,Ac) – n(c + t) / (N  n)                 (A.7)

Đối với c mẫu cho trước n, ch số hạng thứ hai và th ba  về phải của công thức (A.7) bị ảnh hưởng bởi việc thay đổi số chấp nhận. Đối với n cố định, việc giảm số chấp nhận từ k xuống k  1 chỉ có lợi thế nếu và chỉ nếu:

công thức này khi sắp xếp lại tr thành:

trong đó “In” ký hiệu cho logarit nêpe. Kéo theo đối với cỡ mẫu n cho trước, số chấp nhận tối ưu là:

                                   (A.8)

trong đó [x] th hiện phần nguyên của x. Do đó, phương án tối ưu cho tất cả các cỡ mẫu có thể tìm được bng cách tìm giá trị lớn nhất của công thức (A.7) là

                                                                                     (A.9)

A.7. Chú ý về phương án chấp nhận “không”

Điều đáng theo dõi từ Công thức (A.8) là số chấp nhận tối ưu sẽ bằng “không” bất cứ khi nào

Ln(g0 / g1– · ln{(1 – p1) / (1 – p0)} < ln(pp0) – ln[(1 – p1) / (1 – p0)], (A.10)

nghĩa là bất cứ khi nào

                                                                             (A.11)

Đây thường là trường hợp khi p0 rất nhỏ.

A.8. Ví dụ

Giả s rng chi phí sản xuất đơn vị là c = £10,00, giá bán đơn vị cho lô dưới chuẩn là s = £0,50, chi phí bổ sung cho phép thử phá hủy cá thể là t = £1,00, chi phí tiếp sau của đơn vị không phù hợp trong lô được chấp nhận là d = £10 000, c lô là N = 10 000 và xác suất lô ở mức chất lượng p0 là f0 = 0,99. Bng A.1 thể hiện chính sách kiểm tra tối ưu thay đổi và lợi nhun trung bình trên một cá thể bán ra tăng khi mức chất lượng được cải thiện, mặc dù giá bán đơn vị trong lô được chấp nhận giảm đi.

Bảng A.1 – Phương án lấy mẫu tối ưu đối với ví dụ  A.8

Mức chất lượng thông thường, p0

Mức cht lượng, p1, sau sụt giảm

Phương án lấy mẫu một lần định tính tối ưu

Giá bán một cá thể, a

(£)

Lợi nhuận trung bình trên một cá th bán ra

(£)

n

Ac

0,001 00

0,100

104

2

20,25

0,022

0,000 50

0,050

139

1

15,40

0,091

0,000 30

0,030

197

1

13,60

0,211

0,000 20

0,020

249

1

12,75

0,280

0,000 10

0,010

141

0

12,00

0,378

0,000 09

0,009

137

0

11,95

0,436

0,000 08

0,008

129

0

11,90

0,499

0,000 07

0,007

113

0

11,85

0,570

0,000 06

0,006

86

0

11,75

0,603

0,000 05

0,005

34

0

11,70

0,710

0,000 04

0,004

Chp nhn, không lấy mẫu

11,60

0,804

0,000 03

0,003

Chp nhn, không lấy mẫu

11,50

0,903

0,000 02

0,002

Chp nhn, không lấy mẫu

11,35

0,952

0,000 01

0,001

Chp nhn, không lấy mẫu

11,20

1,001

 

THƯ MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] TCVN 9946-2 (ISO/TR 8550-2), Hướng dẫn lựa chọn và sử dụng hệ thống lấy mẫu chấp nhận để kiểm tra cá thể dạng đơn chiếc trong lô – Phần 2: Lấy mẫu định tính

[2] TCVN 9946-3 (ISO/TR 8550-3), Hướng dẫn lựa chọn và sử dụng hệ thống lấy mẫu chấp nhận để kim tra cá thể dạng đơn chiếc trong lô – Phần 3: Lấy mẫu định lượng

[3] TCVN 7790-1:2007 (ISO 2859-1:1999), Quy trình lấy mẫu đ kiểm tra định tính – Phần 1: Chương trình lấy mẫu được xác định theo giới hạn chất lượng chấp nhận (AQL) để kiểm tra từng lô

[4] ISO 2859-2, Sampling procedures for inspection by attributes – Part 2: Sampling plans indexed by limiting quality (LQ) for isolated lot inspection (Qui trình lấy mẫu để kiểm tra định tính – Phần 2: Phương án lấy mẫu xác định theo giới hạn chất lượng (LQ) để kiểm tra lô tách biệt)

[5] TCVN 7790-3:2008 (ISO 2859-3:2005), Quy trình lấy mẫu để kim tra định tính – Phần 3: Qutrình lấy mẫu lô cách quãng

[6] TCVN 7790-4:2008 (ISO 2859-4:2002), Quy trình lấy mẫu để kim tra định tính – Phần 4: Qutrình đánh giá mức chất lượng công bố

[7] TCVN 7790-5:2008 (ISO 2859-5:2005), Quy trình lấy mẫu đ kiểm tra định tính – Phần 5: Hệ thống phương án lấy mẫu liên tiếp xác định theo giới hạn chất lượng chấp nhận (AQL) để kiểm tra từng lô

[8] ISO 14560:2004, Acceptance sampling procedures by attributes – Specified quality levels in nonconforming items per million (Quy trình lấy mẫu chp nhận định tính – Mức cht lượng quy định về cá th không phù hợp trên một triệu)

[9] ISO 18414:2006, Acceptance sampling procedures by attributes – Accept-zero sampling system based on credit principle for controlling outgoing quality (Quy trình ly mẫu chấp nhận định tính – Hệ thống lấy mẫu chấp nhận “không” dựa trên nguyên tắc tin cậy đối với kiểm soát cht lượng đầu ra)

[10] TCVN 8243-1:2009 (ISO 3951-1:2005), Quy trình lấy mẫu để kiểm tra định lượng – Phần 1: Quy định đối với phương án lấy mẫu một lần xác định theo giới hạn chất lượng chấp nhận (AQL) để kiểm tra từng lô đối với một đặc trưng chất lượng và một AQL

[11] TCVN 8243-2:2009 (ISO 3951-2:2006), Quy trình lấy mẫu đ kiểm tra định lượng – Phần 2: Quy định chung đối với phương án lấy mẫu một lần xác định theo giới hạn cht lượng chp nhận (AQL) đ kiểm tra từng lô có đặc trưng chất lượng độc lập

[12] ISO 3951-4, Sampling procedures for inspection by variables – Part 4: Procedures for assessment of declared quality levels (Quy trình lấy mẫu đ kiểm tra định lượng – Phần 4: Quy trình đánh giá mức chất lượng công bố)

[13] ISO 3951-5, Sampling procedures for inspection by variables – Part 5: Sequential sampling plans indexed by acceptance quality limit (AQL) for inspection by variables (Quy trình lấy mẫu đ kim tra định lượng – Phần 5: Phương án lấy mẫu xác định theo giới hạn chất lượng chấp nhận (AQL) để kiểm tra định lượng)

[14] TCVN 9603:2013 (ISO 5479:1997), Giải thích dữ liệu thống kê – Kiểm nghiệm sai lệch so với phân bố chuẩn

[15] ISO 8423, Sequential sampling plans for inspection by variables for percent nonconforming (known standard deviation) [Phương án lấy mẫu liên tiếp đ kiểm tra định lượng phần trăm không phù hợp (biết độ lệch chuẩn)]

[16] TCVN ISO 9000 (ISO 9000), Tiêu chuẩn quản lý chất lượng và đm bảo chất lượng – Hướng dẫn lựa chọn và sử dụng

[17] TCVN ISO 9004 (ISO 9004), Hệ thống quản lý chất lượng – Hướng dẫn cải tiến

[18] BAILLIE, D.H. Is acceptance sampling still needed? Invited paper to the 1992 International Conference on Quality Control, Manila, Philippines, organized by the Asia Pacific Quality Organization and the International Academy for Quality (Lấy mẫu chp nhận có còn cần thiết?)

[19] CROSBY, P.B. Quality is Free: The Art of Making Quality Certain. McGraw-Hill, 1979 (Chất lượng là cho không: Nghệ thuật tạo ra chất lượng đích thc)

 

MỤC LỤC

Lời nói đầu

Lời giới thiệu

1. Phạm vi áp dụng

2. Tài liệu viện dẫn

3. Thuật ngữ và định nghĩa

4. Lạm dụng và sử dụng lấy mẫu chấp nhận

4.1. Lạm dụng lấy mẫu chấp nhận

4.2. Ví dụ 1

4.3. Kiểm tra chất lượng vào sn phẩm

4.4. Thiết kế và kiểm soát

4.5. AQL

4.6. Cấp phép đ tạo ra khuyết tật?

4.7. Triết lý khuyết tật bng “không”

4.8. Sử dụng lấy mẫu chấp nhận

5. Phương án, chương trình và hệ thống lấy mẫu chấp nhận

6. Ưu điểm thực tế và kinh tế của việc sử dụng phương án lấy mẫu tiêu chuẩn

7. Định tính và định lượng

8. Các xem xét khác ảnh hưởng đến việc lựa chọn

8.1. Loạt sản xuất dài và ngắn

8.2. Sự không phù hợp và cá th không phù hợp

8.3. Đường đặc trưng hiệu quả (OC)

8.4. Rủi ro của việc lấy mẫu

8.5. Lựa chọn giá trị AQL, PRQ, LQ và CRQ

8.6. Bậc kiểm tra (IL) – Quan hệ c mẫu/c lô

8.7. Kiểm tra thanh lọc đối với lấy mẫu từng lô  AOQL

9. So sánh các phương pháp kiểm tra ly mẫu

9.1. Sử dụng đường OC cho việc so sánh các phương án lấy mẫu

9.2. Tỷ lệ phân biệt (DR)

9.3. So sánh lấy mẫu một lần, hai lần, nhiều lần và liên tiếp

10. Các phương pháp khác đôi khi được chấp nhận trong thực tế

10.1. Kiểm tra 100%

10.2. Mẫu đột xuất

10.3. Lô sn xuất một lần

10.4. Lấy mẫu đánh giá

11. Sự liên quan của điều kiện thị trường và sản xut

11.1. Khái quát

11.2. Điều kiện th trường

11.3. Điều kiện sản xuất

12. Lựa chọn cuối – Chủ nghĩa hiện thực

Phụ lục A (tham khảo) Ví dụ về mô hình đơn giản đ tối đa hóa lợi nhuận trong kiểm tra phá hủy định tính

Thư mục tài liệu tham khảo

 


1) Phép gần đúng này đ chính xác cho hầu hết các mục đích thực tế trong lấy mẫu chấp nhận. Trong những trường hợp hiếm gặp, nó sẽ cho kết quả lớn hơn cần thiết một đơn vị.

2) Ch những giá trị phần trăm không phù hợp nh mới được coi là chấp nhận được vì sự không phù hợp là nghiêm trọng.

3) Trình bày theo cách khác là (AQL, 100 % – PR[%]).

TIÊU CHUẨN QUỐC GIA TCVN 9946-1:2013 (ISO/TR 8550-1:2007) VỀ HƯỚNG DẪN LỰA CHỌN VÀ SỬ DỤNG HỆ THỐNG LẤY MẪU CHẤP NHẬN ĐỂ KIỂM TRA CÁC CÁ THỂ ĐƠN CHIẾC TRONG LÔ – PHẦN 1: LẤY MẪU CHẤP NHẬN
Số, ký hiệu văn bản TCVN9946-1:2013 Ngày hiệu lực
Loại văn bản Tiêu chuẩn Việt Nam Ngày đăng công báo
Lĩnh vực Lĩnh vực khác
Ngày ban hành
Cơ quan ban hành Tình trạng Còn hiệu lực

Các văn bản liên kết

Văn bản được hướng dẫn Văn bản hướng dẫn
Văn bản được hợp nhất Văn bản hợp nhất
Văn bản bị sửa đổi, bổ sung Văn bản sửa đổi, bổ sung
Văn bản bị đính chính Văn bản đính chính
Văn bản bị thay thế Văn bản thay thế
Văn bản được dẫn chiếu Văn bản căn cứ

Tải văn bản