TIÊU CHUẨN QUỐC GIA TCVN ISO 37106:2018 (ISO 37106:2018) VỀ ĐÔ THỊ VÀ CỘNG ĐỒNG BỀN VỮNG – HƯỚNG DẪN THIẾT LẬP MÔ HÌNH HOẠT ĐỘNG CỦA ĐÔ THỊ THÔNG MINH CHO CỘNG ĐỒNG BỀN VỮNG
TIÊU CHUẨN QUỐC GIA
TCVN ISO 37106:2018
ISO 37106:2018
ĐÔ THỊ VÀ CỘNG ĐỒNG BỀN VỮNG – HƯỚNG DẪN THIẾT LẬP MÔ HÌNH HOẠT ĐỘNG CỦA ĐÔ THỊ THÔNG MINH CHO CỘNG ĐỒNG BỀN VỮNG
Sustainable cities and communities – Guidance on establishing smart city operating models for sustainable communities
Lời nói đầu
TCVN ISO 37106:2018 hoàn toàn tương đương với ISO 37106:2018.
TCVN ISO 37106:2018 do Ban kỹ thuật tiêu chuẩn quốc gia TCVN/TC 268 Cộng đồng và Thành phố bền vững biên soạn, Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng đề nghị, Bộ Khoa học và Công nghệ công bố.
Lời giới thiệu
Tiêu chuẩn này giúp cho các đô thị thực hiện tầm nhìn của mình cho một tương lai bền vững, bằng cách đưa ra một bộ công cụ về “thực hành thông minh” để quản lý việc điều hành, các dịch vụ, dữ liệu và các hệ thống trên toàn đô thị mang tính mở, hợp tác, lấy người dân làm trung tâm và vận hành với sự trợ giúp của kỹ thuật số. Tiêu chuẩn này định nghĩa một “mô hình hoạt động thông minh” đối với các đô thị, cho phép các đô thị này vận hành tầm nhìn, chiến lược và các chính sách của mình với tốc độ nhanh hơn, sự gắn kết lớn hơn và ít rủi ro hơn.
Đặc biệt, cần tập trung vào việc cho phép các đô thị:
- a) giúp người dân hiện tại và tương lai có thêm động lực sau khi có quyết định đầu tư, lập kế hoạch và thực hiện đối với tất cả các không gian và hệ thống của đô thị;
- b) tích hợp việc hoạch định về hạ tầng kỹ thuật và kỹ thuật số;
- c) xác định, dự đoán và ứng phó với những thách thức mới nổi một cách có hệ thống, nhanh nhạy và bền vững;
- d) tạo ra một bước thay đổi về năng lực thực hiện và đổi mới, sáng tạo trong toàn đô thị.
Mặc dù tiêu chuẩn này thiết lập rất nhiều các nguyên tắc cũng như phương pháp luận liên quan đến các lĩnh vực cụ thể của các đô thị (ví dụ: nước, chất thải, năng lượng, nông nghiệp đô thị, giao thông, công nghệ thông tin) nhưng vẫn rất cần chú trọng đến những vấn đề và thách thức liên quan đến việc kết hợp tất cả các vấn đề này vào trong một cách tiếp cận chiến lược trên toàn đô thị về sử dụng dữ liệu thông minh, các cách thức làm việc thông minh và công nghệ thông minh. Vì vậy, trọng tâm của tiêu chuẩn này là tập trung mạnh mẽ vào sự lãnh đạo, điều hành, văn hóa, đổi mới mô hình hoạt động và vai trò tích cực của người dân, doanh nghiệp và xã hội dân sự trong việc tạo lập, thực hiện và sử dụng các không gian và dịch vụ của đô thị.
Tiêu chuẩn này hướng đến các nhà lãnh đạo của đô thị. Phần lớn nội dung hướng dẫn của tiêu chuẩn này có thể sẽ rất hữu ích cho các lãnh đạo của các cộng đồng chưa đạt đến quy mô đô thị, bao gồm cả những khu vực đô thị nhỏ hơn và những sáng kiến có quy mô khu vực, lớn hơn. Tuy nhiên, các đối tượng ưu tiên hàng đầu của tiêu chuẩn này là các lãnh đạo của đô thị, bao gồm:
– các nhà xây dựng chính sách trong các chính quyền đô thị, cả những người chịu trách nhiệm về thiết kế, giám sát và thực hiện dịch vụ của chính quyền cũng như những người chịu trách nhiệm lãnh đạo cộng đồng, cụ thể là:
– các nhà lãnh đạo được bầu;
– các nhà quản trị cao cấp của các chính quyền địa phương;
– các nhà quản trị cao cấp của các tổ chức công khác của đô thị.
– các bên quan tâm khác dẫn dắt và tạo ra môi trường của đô thị như:
– các nhà quản trị cao cấp trong khu vực tư nhân muốn hợp tác và hỗ trợ các đô thị trong việc chuyển đổi các hệ thống của đô thị để tạo ra giá trị được chia sẻ;
– các nhà lãnh đạo của các tổ chức khu vực tình nguyện đang hoạt động trong đô thị;
– các nhà lãnh đạo thuộc những lĩnh vực giáo dục bậc đại học và trên đại học;
– các nhà đổi mới, sáng tạo và các nhà đại diện cho cộng đồng.
Ngoài ra, tiêu chuẩn này cũng đề cập đến tất cả bên tham gia vào việc xây dựng đô thị thông minh, bao gồm cả các cá nhân.
Đô thị thông minh cần được mô tả là đô thị mà “gia tăng đáng kể tốc độ phát triển theo hướng bền vững và phục hồi bằng việc cải thiện cơ bản cách thức huy động sự tham gia của xã hội, cách thức áp dụng các phương pháp lãnh đạo mang tính hợp tác, cách thức hoạt động theo các nguyên lý và hệ thống của đô thị và cách thức sử dụng dữ liệu và các công nghệ được tích hợp … để chuyển đổi các dịch vụ và chất lượng cuộc sống cho những tổ chức, cá nhân trong đô thị và liên quan với đô thị (các cư dân, doanh nhân và du khách).
CHÚ THÍCH Định nghĩa này mang tính chất tham khảo. Trên thế giới xu hướng xây dựng đô thị thông minh phát triển mạnh mẽ. Tuy nhiên xu hướng này cũng rất đa dạng và có những đặc tính riêng cho mỗi đô thị. Tất cả các đô thị bắt tay vào phát triển cho chiến lược đô thị thông minh có thể xác định lý do riêng để làm như vậy và theo cách làm riêng của mình; các quá trình thảo luận và tranh luận giữa các bên liên quan để xác định đô thị sẽ phát triển theo mô hình đô thị thông minh nào.
ĐÔ THỊ VÀ CỘNG ĐỒNG BỀN VỮNG – HƯỚNG DẪN THIẾT LẬP MÔ HÌNH HOẠT ĐỘNG CỦA ĐÔ THỊ THÔNG MINH CHO CỘNG ĐỒNG BỀN VỮNG
Sustainable cities and communities – Guidance on establishing smart city operating models for sustainable communities
1 Phạm vi áp dụng
Tiêu chuẩn này đưa ra hướng dẫn cho các nhà lãnh đạo của các đô thị và cộng đồng thông minh (từ các khu vực công, tư và tình nguyện) về cách thức phát triển mô hình hoạt động mở, hợp tác, lấy người dân làm trung tâm và sử dụng kỹ thuật số cho đô thị của mình để đưa vào thực hiện tầm nhìn của đô thị cho tương lai bền vững.
Tiêu chuẩn này không mô tả một mô hình phù hợp cho mọi đô thị trong tương lai mà tập trung vào các quá trình cho phép sử dụng sáng tạo công nghệ và dữ liệu kết hợp với sự thay đổi về tổ chức để có thể giúp cho mỗi đô thị có được tầm nhìn cụ thể cho tương lai bền vững theo những cách thức có hiệu lực, hiệu quả và linh hoạt hơn.
Tiêu chuẩn này cung cấp các công cụ đã được chứng minh mà các đô thị có thể triển khai khi thực hiện tầm nhìn, chiến lược và chương trình chính sách đã được các đô thị xây dựng sau khi áp dụng TCVN 37101 về hệ thống quản lý về phát triển cộng đồng bền vững. Các đô thị chưa cam kết triển khai áp dụng hệ thống quản lý theo TCVN 37101 cũng có thể sử dụng toàn bộ hoặc một phần nội dung quy định của tiêu chuẩn này.
2 Tài liệu viện dẫn
Các tài liệu viện dẫn sau rất cần thiết cho việc áp dụng tiêu chuẩn này. Đối với các tài liệu viện dẫn ghi năm công bố thì áp dụng phiên bản được nêu. Đối với các tài liệu viện dẫn không ghi năm công bố thì áp dụng phiên bản mới nhất, bao gồm cả các sửa đổi, bổ sung (nếu có).
ISO 37100, Sustainable cities and communities – Vocabulary (Đô thị và cộng đồng bền vững – Từ vựng)
3 Thuật ngữ và định nghĩa
Tiêu chuẩn này sử dụng một số thuật ngữ và định nghĩa được đưa ra trong ISO 37100 và các thuật ngữ và định nghĩa sau.
CHÚ THÍCH 1 Thuật ngữ “tính thông minh” được nêu trong TCVN 37101 là “chất lượng của việc đóng góp vào sự phát triển bền vững và khả năng phục hồi thông qua việc ra quyết định dựa trên việc chấp nhận quan điểm ngắn và dài hạn” có liên quan chặt chẽ đến Tiêu chuẩn này. Tính thông minh được gắn kết trong quá trình phát triển bền vững, tức là phát triển bền vững là quá trình bao quát, trong khi tính thông minh là một đặc tính. Tính thông minh hàm ý về một cách tiếp cận toàn diện, bao gồm quản trị tốt, việc tổ chức, các quá trình và hành vi phù hợp, sử dụng các kỹ thuật, công nghệ và tài nguyên thiên nhiên một cách sáng tạo và.
CHÚ THÍCH 2 Thuật ngữ “Hạ tầng thông minh cho cộng đồng” được nêu trong TCVN 37151 là “hạ tầng cho cộng đồng với kết quả hoạt động công nghệ tăng cường được thiết kế, được hoạt động và được duy trì để góp phần cho phát triển bền vững và khả năng phục hồi của cộng đồng” cũng có liên quan đến Tiêu chuẩn này khi đề cập đến hạ tầng.
3.1
Hệ sinh thái đổi mới (innovation ecosystem)
Hệ thống phức hợp gồm các thành phần phụ thuộc lẫn nhau của khu vực tư và công cùng phối hợp để thúc đẩy sự đổi mới trong đô thị hay cộng đồng.
3.2
Cấu trúc theo chức năng (silo)
Cấu trúc xi lô
Nhóm các cá nhân/nhóm/tổ chức cộng tác với nhau để thực hiện chức năng cụ thể ở đô thị.
VÍ DỤ Giáo dục, năng lượng, giao thông…
3.3
Lấy người dân làm trung tâm (citizen-centric)
<thiết kế và cung cấp các dịch vụ của đô thị> định hướng theo nhu cầu của người dân chứ không theo cơ cấu chức năng của các cấu trúc theo chức năng của đô thị.
CHÚ THÍCH 1 Thuật ngữ người dân trong bối cảnh này bao gồm người dân, du khách và doanh nghiệp trong đô thị.
4 Tổng quan
4.1 Chuyển đổi mô hình hoạt động truyền thống cho các đô thị
Mô hình hoạt động truyền thống cho một đô thị dựa vào các nhà cung cấp dịch vụ định hướng theo chức năng, thực hiện vai trò của các cấu trúc theo chức năng theo chiều dọc không liên kết với nhau mà thường được thiết lập không dựa trên nhu cầu của người sử dụng. Tiêu chuẩn này xác định các thực hành tốt nhất để chuyển sang “mô hình hoạt động của đô thị thông minh” – mô hình thúc đẩy các đô thị đạt được sự đổi mới và hợp tác qua các cấu trúc theo chức năng chiều dọc này và từ đó thực hiện tầm nhìn, chiến lược và các chính sách nhanh hơn, linh hoạt hơn và ít rủi ro hơn.
Theo mô hình truyền thống, việc lập kế hoạch ngân sách, trách nhiệm giải trình, việc ra quyết định và cung ứng dịch vụ đã được gắn liền trong các chuỗi cung ứng tích hợp theo chiều dọc bên trong các đô thị. Các cấu trúc này được thiết lập theo các chức năng chứ không phải theo nhu cầu của người sử dụng. Điều này được minh họa ở Hình 1:
– từng người dân hoặc doanh nghiệp đã tham gia riêng biệt với mỗi cấu trúc theo chức năng, tạo ra các kết nối cho chính mình thay vì nhận được dịch vụ liên tục và kết nối đáp ứng nhu cầu của mình;
– dữ liệu và thông tin thường bị khóa trong các cấu trúc theo chức năng này, hạn chế tiềm năng hợp tác và đổi mới trên toàn đô thị và hạn chế khả năng thúc đẩy sự thay đổi trên toàn đô thị.
Hình 1 – Mô hình hoạt động truyền thống: Xuất phát điểm của các đô thị
Hình 2 tóm lược về sự thay đổi đối với cách thức hoạt động truyền thống này mà các đô thị thông minh hiện đang hướng tới.
Hình 2 – Mô hình hoạt động của đô thị thông minh mà các đô thị đang hướng tới
Các tính năng chính của sự chuyển đổi này sang mô hình hoạt động của đô thị thông minh bao gồm:
- a) đầu tư vào dữ liệu thông minh, nghĩa là đảm bảo rằng dữ liệu về hiệu quả hoạt động và việc sử dụng các tài sản kỹ thuật, không gian và kỹ thuật số của đô thị luôn sẵn có, có tính mở và khả năng liên thông, cho phép tích hợp và tối ưu hóa các tài nguyên của đô thị;
- b) quản lý dữ liệu như một dạng tài sản thuộc quyền quản lý của đô thị, cả trong trường hợp dữ liệu đó là của chính quyền địa phương cũng như có sự kết hợp với dữ liệu của các bên khác trong toàn đô thị;
- c) tạo ra sự đổi mới được định hướng từ bên ngoài, do người dân, doanh nghiệp và xã hội dân sự khởi xướng thông qua việc công khai dữ liệu và dịch vụ của đô thị phục vụ cho lợi ích chung:
1) cả ở cấp độ kỹ thuật, thông qua việc phát triển các nền tảng dữ liệu mở; và
2) ở cấp độ kinh doanh, thông qua các bước để tạo ra một thị trường phát triển mạnh có sử dụng dữ liệu công cùng với việc phát hành dữ liệu từ các thực thể thương mại theo cách thích hợp về mặt thương mại;
- d) tạo ra sự đổi mới được định hướng từ bên trong, do đô thị làm chủ đạo để cung cấp các dịch vụ lấy người dân làm trung tâm và bền vững hơn, bằng cách:
1) cung cấp cho người dân và doanh nghiệp những dịch vụ công có thể truy cập ở một cổng, bằng nhiều kênh, thu hút người dân, doanh nghiệp và cộng đồng tham gia trực tiếp vào việc tạo lập dịch vụ, đồng thời các dịch vụ này được xây dựng theo nhu cầu của người dùng chứ không phải theo cấu trúc của đô thị:
2) thiết lập kiến trúc thông tin và kinh doanh được tích hợp cho phép đô thị xem xét toàn diện các nhóm khách hàng cụ thể của các dịch vụ đô thị này (ví dụ: hành khách, người cao tuổi, gia đình gặp khó khăn, người khuyết tật);
- e) thiết lập các ngân sách toàn diện và linh hoạt, chú trọng đến giá trị tiền tệ vượt khỏi các ranh giới chuẩn mực của từng đơn vị.
- f) thiết lập các quá trình điều hành và quản lý các bên liên quan trên phạm vi toàn đô thị nhằm hỗ trợ và đánh giá những thay đổi này.
4.2 Cấu trúc của tiêu chuẩn này
Nội dung của tiêu chuẩn này thể hiện trong Hình 3. Ở cấp độ cao nhất, tiêu chuẩn này được xây dựng dựa vào bốn cấu phần cần thiết để hỗ trợ cho sự chuyển đổi sang mô hình hoạt động của đô thị thông minh:
[A] Các nguyên tắc thực hiện: tuyên bố về những giá trị mà các nhà lãnh đạo đô thị có thể sử dụng để chỉ đạo việc ra quyết định khi họ tìm cách thực hiện tầm nhìn và chiến lược của mình đối với đô thị;
[B] Các quá trình thực hiện chính trên toàn đô thị: các hướng dẫn thực tế về cách giải quyết những thách thức khi triển xuyên theo các cấu trúc theo chức năng trên phạm vi toàn đô thị:
[C] Khung hiện thực hóa lợi ích: hướng dẫn về cách thức đảm bảo các mục tiêu của các đầu tư cho đô thị thông minh và những kết quả về xã hội, kinh tế và môi trường mà đô thị mong muốn đạt được, đồng thời các lợi ích dự tính được nêu rõ, được đo lường, quản lý, phân phối và đánh giá trong thực tế;
[D] Quản lý rủi ro: danh sách các vấn đề mà một đô thị cần thường xuyên theo dõi nhằm đảm bảo việc quản lý có hiệu quả các rủi ro chính để đưa ra tầm nhìn và chiến lược của đô thị.
Các cấu phần này được mô tả chi tiết hơn trong các điều từ 5 đến 8. Các hướng dẫn chi tiết cho từng cấu phần nhỏ được mô tả tại Hình 3 theo một cấu trúc chung.
Để thuận tiện cho việc tham khảo, trong 4.3 có một bản tóm tắt về tất cả các khuyến nghị có trong tiêu chuẩn này. Các khuyến nghị này được mô tả chi tiết hơn trong các điều tiếp theo của tiêu chuẩn này.
Hình 3 – Cấu trúc cấp độ cao của tiêu chuẩn này
4.3 Tóm tắt về các khuyến nghị
Các nhà lãnh đạo đô thị thông minh cần thực hiện theo những hướng dẫn sau:
[A] Các nguyên tắc thực hiện
- a) Phối hợp với các bên liên quan để phát triển và chấp thuận bộ nguyên tắc thực hiện ít nhất cần phải:
1) thiết lập tầm nhìn rõ ràng, thuyết phục và toàn diện về tương lai bền vững của đô thị;
2) đưa ra cách tiếp cận lấy người dân làm trung tâm đối với mọi khía cạnh về thiết kế và cung cấp dịch vụ;
3) cho phép số hóa toàn diện, tích hợp và rộng khắp các không gian và hệ thống của đô thị;
4) gắn tính mở và việc chia sẻ vào các hoạt động của đô thị.
- b) Sử dụng các nguyên tắc thực hiện được nêu trong Phụ lục A như đầu vào và điểm khởi đầu chính cho quá trình đó.
[B] Các quá trình thực hiện chính trên toàn đô thị
[B1] Tầm nhìn của đô thị
Tạo lập tầm nhìn về “những gì tốt đẹp” cho đô thị hôm nay và mai sau sao cho:
- a) phù hợp với các mục đích cho những cộng đồng bền vững nêu trong TCVN 37101 và phản ánh các ưu tiên của địa phương;
- b) được phát triển theo cách lặp lại và hợp tác (như có sự tham gia của tất cả các bên quan tâm và thông tin rõ bằng việc nghiên cứu và cam kết của người sử dụng thông qua các phương tiện truyền thông xã hội và các công nghệ khác để cho phép sự tham gia của công chúng vào quá trình này);
- c) nắm lấy các cơ hội được mở ra nhờ các công nghệ, dữ liệu và sự hợp tác thông minh;
- d) tích hợp những điều này với tầm nhìn và mục đích kinh tế – xã hội, chính trị và môi trường cốt lõi cho tương lai của đô thị, thay vì xem chúng tách biệt khỏi các mục tiêu chiến lược cốt lõi của đô thị;
- e) sử dụng mô hình hóa kỹ thuật số, trực quan hóa dữ liệu và/hoặc các công nghệ khác để hiện thực hóa môi trường sống và môi trường làm việc đúng theo tầm nhìn của đô thị cho tương lai;
- f) có thể đo lường được.
[B2] Sự lãnh đạo và điều hành
Thiết lập các quy trình, thủ tục về lãnh đạo và điều hành để đảm bảo:
- a) trọng tâm rõ ràng về trách nhiệm trong chính quyền địa phương;
- b) đội ngũ lãnh đạo được sự ủng hộ trên toàn đô thị;
- c) có sự phối hợp chặt chẽ giữa các nhà lãnh đạo đô thị trong các lĩnh vực để xây dựng những chính sách điều hành có hiệu quả ở cả các cấp độ chiến lược và thực hiện;
- d) triển khai các nguyên tắc quản lý chương trình chính thức;
- e) sự hòa hợp các kỹ năng chuẩn trong đội ngũ lãnh đạo;
- f) khả năng tiến triển của các tổ chức có liên quan trong quá trình triển khai;
- g) quy trình điều hành mang tính mở và minh bạch, bao gồm cả việc tham gia của công chúng thông qua hình thức kỹ thuật số.
[B3] Sự cam kết hợp tác
Thiết lập, ưu tiên cao và cung cấp đủ nguồn lực cho chương trình cam kết chính thức được quản lý bởi tất cả các bên quan tâm. Chương trình này cần được chỉ đạo bởi lãnh đạo cao nhất và quy định cụ thể về vai trò, nhiệm vụ của họ khi triển khai chương trình đô thị thông minh và cần bao gồm:
- a) nhận thức và sự tham gia của các bên quan tâm;
- b) quan hệ đối tác giữa các ngành, lĩnh vực;
- c) cam kết với các đô thị khác để học hỏi và trao đổi kinh nghiệm.
[B4] Quản lý việc mua sắm và nhà cung cấp
- a) thực hiện việc xem xét tích hợp về các yêu cầu mua sắm của đô thị;
- b) xem xét các chính sách mua sắm để đảm bảo những chính sách này phù hợp với các nguyên tắc về ký kết hợp đồng về đô thị thông minh (tức là tập trung vào kết quả, dữ liệu mở, các biện pháp khích lệ, động viên sự đổi mới và hợp tác, tránh khép kín).
- c) tạo ra một hệ sinh thái đổi mới trên toàn đô thị và các nhà cung cấp của đô thị.
[B5] Lập bản đồ các nhu cầu về khả năng liên thông của đô thị
Sử dụng ma trận về khả năng liên thông của đô thị thông minh như một công cụ để:
- a) giúp xác định các rào cản chính đối với khả năng liên thông trong đô thị;
- b) thiết lập các chính sách và hành động để giải quyết các vấn đề này, dựa trên các tiêu chuẩn quốc gia, tiêu chuẩn quốc tế, tiêu chuẩn khu vực và tiêu chuẩn nước ngoài nếu có thể;
- c) thúc đẩy tính phổ biến của các phương pháp tiếp cận và sự liên kết dễ dàng hơn với các đô thị, các chính quyền địa phương và quốc gia khác.
[B6] Thiết lập thuật ngữ và mô hình tham chiếu chung
- a) Đảm bảo rằng tất cả các bên quan tâm đều có sự hiểu biết rõ ràng, nhất quán và phổ biến về các khái niệm chính liên quan đến phát triển đô thị thông minh; mối quan hệ giữa các khái niệm này; cách thức các khái niệm này có thể được mô hình hóa chính thức; cách thức các mô hình này có thể được sử dụng và tích hợp vào các kiến trúc thông tin mới và hiện có.
- b) Tìm kiếm sự thỏa thuận giữa các bên quan tâm để thiết lập và duy trì hệ thống thuật ngữ và mô hình tham chiếu chung được chấp thuận và được chia sẻ.
[B7] Lộ trình của đô thị thông minh
- a) Thiết lập lộ trình cho đô thị thông minh theo từng giai đoạn.
- b) Làm việc với các bên quan tâm để xác định tập hợp các dịch vụ và các công việc ban đầu của đô thị thông minh cho thấy thành công nhanh chóng đối với đô thị.
- c) Ưu tiên những thay đổi có thể thực hiện nhanh chóng với chi phí thấp và rủi ro thấp.
- d) Thiết lập các hệ thống để sớm học hỏi từ kinh nghiệm của khách hàng, cải tiến các dịch vụ trên cơ sở những điều đã học hỏi được và sau đó nâng cao hơn nữa chất lượng dịch vụ.
- e) Sớm làm việc với những người có trách nhiệm xem xét, phê duyệt lộ trình này của chính quyền địa phương và các tổ chức đối tác nhằm đưa ra những hình mẫu và những tổ chức dẫn đầu của địa phương, từ đó học hỏi kinh nghiệm và thúc đẩy quá trình chuyển đổi trong dài hạn.
[B8] Trao quyền cho cộng đồng đô thị thông qua dữ liệu của đô thị
Trao quyền cho các bên quan tâm trong tất cả lĩnh vực của đô thị để tạo ra các loại dịch vụ và giá trị mới bằng cách công bố dữ liệu của đô thị qua các nền tảng mở, đồng thời thúc đẩy những thay đổi trong văn hóa nội bộ và các nhà phát triển thị trường bên ngoài có nhu cầu tạo lập thị trường thông tin về đô thị.
[B9] Thực hiện các dịch vụ tích hợp lấy người dân làm trung tâm
- a) Cung cấp cho người dân và doanh nghiệp các dịch vụ công có thể truy cập ở một cổng, bằng nhiều kênh và được tạo lập dựa trên nhu cầu của người dùng chứ không phải dựa trên cấu trúc của đô thị.
- b) Thiết lập kiến trúc thông tin và hoạt động được tích hợp cho phép đô thị xem xét toàn diện các nhóm khách hàng cụ thể của các dịch vụ đô thị này.
- c) Triển khai thực hiện theo từng giai đoạn, với chi phí thấp và ít rủi ro bằng cách hình thành nhiều doanh nghiệp nhượng quyền hiệu quả trên toàn đô thị, có tính linh hoạt dựa trên các phân khúc khách hàng cụ thể và nằm trong các cấu trúc cung cấp dịch vụ hiện có của đô thị.
[B10] Quản lý danh tính và quyền riêng tư
Gắn một phương pháp tiếp cận với việc quản lý danh tính và quyền riêng tư dựa trên:
- a) một mô hình hoạt động mở và được liên kết;
- b) một kiến trúc công nghệ thông tin định hướng vào dịch vụ; và
- c) một mô hình tin cậy lấy người dân làm trung tâm.
[B11] Chiến lược áp dụng kỹ thuật số và quản lý kênh
Thiết lập chiến lược áp dụng kỹ thuật số và quản lý kênh, bao gồm:
- a) đánh giá rõ ràng đối với các kênh hiện có đang được sử dụng để cung cấp các dịch vụ đô thị và đối với các chi phí và mức dịch vụ gắn kết với những kênh này;
- b) tầm nhìn và lộ trình cho việc xây dựng phương pháp tiếp cận về quản lý kênh mới mà:
1) tập trung vào những nhu cầu và hành vi của người dân và doanh nghiệp;
2) xác định các cơ hội cho những dịch vụ hiện tại được thiết kế và phát triển bằng việc áp dụng trực tiếp sự kết nối mới thông minh giữa tài sản của đô thị và các thiết bị kỹ thuật số;
3) khuyến khích người dân và doanh nghiệp tiếp cận và sử dụng các dịch vụ kỹ thuật số mà hiện tại họ chưa dùng vì một lý do nào đó.
[B12] Quản lý các phát triển và hạ tầng của đô thị thông minh
Hợp tác với tất cả các bên quan tâm để đảm bảo rằng tất cả các dự án phát triển và hạ tầng trên toàn đô thị đều được:
- a) tạo lập các nguyên tắc thực hiện thông minh trong việc lập kế hoạch cho dự án ngay từ đầu;
- b) thực hiện cách tiếp cận toàn diện cho tất cả các loại hình hạ tầng của đô thị;
- c) tạo lập các quan hệ đối tác và mô hình hoạt động mới.
[B13] Lập bản đồ và quản lý tài nguyên về công nghệ thông tin và dữ liệu
Lập bản đồ về các tài nguyên thông tin và hệ thống công nghệ thông tin chính trên toàn đô thị, ưu tiên những tài nguyên có tiềm năng tái sử dụng nhiều nhất và thiết lập các quá trình quản lý, điều hành và chính sách sử dụng nhằm tối đa hóa việc tái sử dụng tài sản bởi các đối tác của đô thị.
[B14] Kiến trúc công nghệ thông tin mở, định hướng vào dịch vụ trên toàn đô thị
Làm việc với các bên quan tâm (bao gồm các nhà cung cấp công nghệ thông tin, các doanh nghiệp nhỏ và vừa, các nhà nghiên cứu …) để thiết lập kiến trúc công nghệ thông tin mở, định hướng vào dịch vụ, trên toàn đô thị và phát triển kế hoạch chuyển dịch theo từng giai đoạn hướng tới kiến trúc đó.
[C] Khung hiện thực hóa lợi ích
Thiết lập chiến lược hiện thực hóa lợi ích để đảm bảo có một đường hướng rõ ràng giữa các hành động và tầm nhìn, đồng thời những lợi ích dự kiến từ chương trình đô thị thông minh được thực hiện trong thực tiễn. Chiến lược này cần được tạo lập dựa trên 3 cột trụ chính:
- a) lập bản đồ lợi ích;
- b) theo dõi lợi ích; và
- c) phân phối lợi ích.
[D] Quản lý rủi ro
Thiết lập các quá trình nhằm đảm bảo rằng các rủi ro chính đối với việc thực hiện thành công chiến lược này của đô thị được xác định, đo lường và quản lý.
5 Cấu phần A – Các nguyên tắc thực hiện
5.1 Bối cảnh
Quản lý sự chuyển dịch đến mô hình hoạt động của đô thị thông minh đòi hỏi sự hợp tác và sự thay đổi của rất nhiều cá nhân, cộng đồng và tổ chức trong một khoảng thời gian dài. Một cách tiếp cận đi kèm theo một tập hợp các nguyên tắc được công bố rõ ràng có thể giúp đảm bảo rằng các quyết định về hoạt động của các tổ chức đó là phù hợp.
5.2 Nhu cầu
Việc đưa chiến lược về sự thay đổi trên toàn đô thị vào thực tiễn đòi hỏi có một cách tiếp cận dựa trên nguyên tắc khi triển khai.
Lãnh đạo của các chương trình đô thị thông minh phải đối mặt với những thách thức đáng kể, bao gồm:
- a) phạm vi của chương trình đề cập đến tất cả các khía cạnh của đời sống đô thị;
- b) mức độ tham vọng của chương trình (thông thường sẽ hướng đến việc đạt được sự thay đổi: đó là chuyển đổi chứ không phải là gia tăng);
- c) rất nhiều bên quan tâm và các đối tác cung cấp dịch vụ tham gia chương trình này;
- d) tính dễ bị tổn thương đối với sự thay đổi bên ngoài và sự không chắc chắn có thể ảnh hưởng đến việc thực hiện chương trình;
- e) quản lý sức ép giữa một mặt là mong muốn để có kết quả nhanh hơn bằng cách học hỏi từ các cách tiếp cận thành công ở các đô thị khác và mặt khác là nhu cầu phát triển các cách tiếp cận từ dưới lên cho phép chính quyền đô thị có quyền sở hữu và sự ủng hộ mạnh mẽ.
Kết hợp lại với nhau, các thách thức này cho thấy những cách tiếp cận về quản lý sự thay đổi từ trên xuống không phát huy tác dụng. Sự thành công không thể đạt bằng việc hoạch định chi tiết tất cả các yếu tố của sự thay đổi ngay từ đầu. Thành công chỉ có thể đạt được bằng cách xác định một tầm nhìn rõ ràng và có sự đồng thuận, sau đó xây dựng một lộ trình thực hiện, đưa ra được một khuôn khổ cho quá trình thay đổi toàn diện, gắn kết chặt chẽ để thực hiện tầm nhìn trong suốt thời gian triển khai. Các yếu tố chính của điều này được làm rõ trong các hướng dẫn của tiêu chuẩn này. Tuy nhiên, ngay từ đầu cần phải xác định rõ các nguyên tắc thực hiện mà những bên tham gia chính của đô thị sẽ phải tuân thủ trong suốt quá trình triển khai.
Thuật ngữ “các nguyên tắc thực hiện” trong tiêu chuẩn này có nghĩa là tuyên bố đồng thuận và lâu dài về các giá trị có thể được sử dụng để chỉ đạo việc ra quyết định về hoạt động của nhiều tổ chức của đô thị trong dài hạn và là các nguyên tắc:
– được sử dụng để thông báo và củng cố chiến lược của đô thị thông minh;
– được thấu hiểu, đồng thuận và tuân thủ bởi tất cả các tổ chức chủ chốt trên toàn đô thị trong việc thực hiện chiến lược này.
Khi xây dựng các nguyên tắc này, mỗi đô thị không cần phải bắt đầu lại từ đầu. Các đô thị cần áp dụng cách tiếp cận “một mô hình phù hợp cho tất cả” cho việc chuyển đổi của đô thị và các cách tiếp cận đơn giản cho việc chuyển giao những thực hành tốt giữa các đô thị với nhau. Như vậy ngày càng có nhiều tổ chức cho thấy những chiến lược về đô thị thông minh triển khai thành công.
Hình 4 tóm tắt về các nguyên tắc thực hiện được đề xuất trong tiêu chuẩn này và được xây dựng dựa trên:
- a) việc nghiên cứu, đánh giá các tài liệu quan đến đô thị thông minh của chính phủ, ngành công nghiệp, tổ chức và cơ quan nghiên cứu; và
- b) việc nghiên cứu, đánh giá phối hợp và tham vấn rộng rãi với các tổ chức thực hành chuyên nghiệp liên quan đến đô thị thông minh.
Những nguyên tắc này được trình bày đầy đủ trong Phụ lục A.
Như vậy, một đô thị thông minh là đô thị:
- a) có tầm nhìn,
- b) lấy người dân làm trung tâm
- c) kỹ thuật số,
- d) mở và hợp tác.
Để hướng tới một đô thị thông minh, cần thực hiện những nguyên tắc sau:
Hình 4 – Tóm lược về các nguyên tắc thực hiện của đô thị thông minh
5.3 Các khuyến nghị
Dưới đây là các khuyến nghị:
- a) Lãnh đạo của đô thị thông minh cần hợp tác với các bên quan tâm nhằm phát triển và đồng thuận về một bộ nguyên tắc thực hiện bao gồm tối thiểu những điều cần làm sau đây:
1) thiết lập tầm nhìn của đô thị [B1] rõ ràng, thuyết phục và toàn diện;
2) có cách tiếp cận lấy người dân làm trung tâm (trong đó các nhu cầu của người dân chứ không phải là cấu trúc của đô thị định hướng cho mọi khía cạnh của việc thiết kế và thực hiện dịch vụ);
3) tạo thuận lợi cho việc số hóa toàn diện, tích hợp và rộng khắp các không gian và hệ thống của đô thị;
4) luôn đảm bảo tính mở và việc chia sẻ theo cách thức mà đô thị vận hành.
- b) Lãnh đạo của đô thị thông minh cần sử dụng các nguyên tắc thực hiện nêu trong Phụ lục A làm đầu vào chính và điểm khởi đầu đối với quá trình này.
5.4 Sự liên kết
Phát triển, đồng thuận và hành động với vai trò là người giám sát các nguyên tắc thực hiện này là nhiệm vụ cốt lõi của những người tham gia vào việc lãnh đạo và điều hành [B2] đô thị thông minh và cần được đề cập ở giai đoạn đầu để xây dựng tầm nhìn của đô thị [B1] và lộ trình của đô thị thông minh [B7].
6 Cấu phần B – Các quá trình thực hiện chính trên toàn đô thị
6.1 Khái quát
Điều này hướng dẫn về cách thức tiến hành các nguyên tắc thực hiện [A] trong thực tế. Trọng tâm là giải quyết các thách thức trên toàn đô thị khi tham gia vào các cấu trúc theo chức năng của đô thị trong ba lĩnh vực:
– quản lý chiến lược, được nêu trong hướng dẫn [B1] đến [B7];
– quản lý dịch vụ lấy người dân làm trung tâm, được nêu trong các hướng dẫn [B8] đến [B11];
– quản lý tài nguyên kỹ thuật số và hạ tầng kỹ thuật, được nêu trong các hướng dẫn [B12] đến [B14].
6.2 Quản lý chiến lược
Điều này tập trung vào quản lý chiến lược, nghĩa là các khía cạnh chính của việc điều hành, hoạch định và ra quyết định cần được quản lý ở cấp độ toàn đô thị. Do đó không nhất thiết cần có một cách tiếp cận từ trên xuống, được hoạch định và quản lý mang tính tập trung mà là thực hiện một cách tiếp cận trên toàn đô thị nhằm:
- a) thiết lập tầm nhìn, chiến lược và kế hoạch hiện thực hóa lợi ích được tích hợp;
- b) củng cố việc thiết lập trên bằng mô hình hoạt động cân bằng cả nhu cầu quản lý toàn đô thị lẫn nhu cầu đổi mới tại địa phương;
- c) tiến hành cách tiếp cận gắn kết hữu cơ với việc thực hiện: thiết lập các quá trình hoạt động, năng lực và cấu trúc mà có thể định hướng sự chuyển đổi, đồng thời tạo ra và phát triển các cải tiến bền vững liên tục, ngay cả khi tất cả các bước của quá trình chuyển đổi đó không thể hoạch định được chi tiết ngay từ đầu.
Các cấu phần nhỏ của quản lý chiến lược trong tiêu chuẩn này là:
– [B1] Tầm nhìn của đô thị;
– [B2] Sự lãnh đạo và điều hành;
– [B3] Sự cam kết hợp tác;
– [B4] Quản lý việc mua sắm và nhà cung cấp;
– [B5] Lập bản đồ các nhu cầu về khả năng liên thông của đô thị;
– [B6] Thiết lập thuật ngữ và mô hình tham chiếu chung;
– [B7] Lộ trình của đô thị thông minh.
6.3 Cấu phần [B1] – Tầm nhìn của đô thị
6.3.1 Bối cảnh
Nguyên tắc đầu tiên trong số các nguyên tắc thực hiện [A] là nhu cầu đối với các nhà lãnh đạo đô thị thông minh về xây dựng một tầm nhìn rõ ràng, thuyết phục và được chia sẻ đối với đô thị mình.
6.3.2 Nhu cầu
Một tầm nhìn đồng thuận về một “tương lai bền vững” đối với đô thị dưới các góc độ trực quan và cảm quan là rất cần thiết để đạt được sự thành công.
Như đã nêu trước đây, tiêu chuẩn này không hướng đến việc mô tả tầm nhìn về tương lai của các đô thị phù hợp với mọi đô thị. Các đô thị có sự khác biệt về vị trí và văn hóa địa phương, và do đó xây dựng những tầm nhìn khác biệt cho thấy những mong muốn của mình về tương lai dựa trên những điểm khác biệt này.
Điều này chứng tỏ rằng có sự đồng thuận ngày càng tăng về các mục đích mà các đô thị và cộng đồng cần chú trọng để đảm bảo sự phát triển bền vững. TCVN 37101 mô tả sáu mục đích để các cộng đồng xem xét khi xây dựng tầm nhìn và chiến lược của mình cho tương lai, như minh họa trong Bảng 1. Hướng dẫn thực hiện liên quan đến TCVN 37101 thiết lập một quá trình gồm bốn giai đoạn cho các đô thị xây dựng chiến lược nhằm thực hiện các mục đích bền vững này: 1) xem xét đường cơ sở; 2) xác định chiến lược; 3) thiết lập và thực hiện kế hoạch hành động và 4) đánh giá kết quả hoạt động và cải tiến liên tục.
Bảng 1 – Các mục đích của cộng đồng
Mục đích của tính bền vững | Ví dụ |
Sự lôi cuốn | Kêu gọi người dân và các bên quan tâm khác, ví dụ: các nhà đầu tư; trách nhiệm; văn hóa; địa điểm; ý thức về bản sắc. |
Bảo tồn và cải thiện môi trường | Cải thiện kết quả hoạt động môi trường, bao gồm; giảm phát thải khí nhà kính; bảo vệ, phục hồi và nâng cao đa dạng sinh học và các dịch vụ hệ sinh thái, bao gồm: bảo vệ hệ sinh thái, sự đa dạng và di cư của thực vật và động vật cũng như sự đa dạng di truyền; giảm nguy cơ đối với sức khỏe. |
Khả năng phục hồi | Dự đoán; thích ứng và/hoặc giảm thiểu biến đổi khí hậu; lường trước những căng thẳng và cú sốc về kinh tế; tiến bộ xã hội. |
Sử dụng tài nguyên có trách nhiệm | Tiêu dùng; phân phối; quản lý đất đai theo hướng cải tiến; giảm, tái sử dụng và tái chế nguyên vật liệu; lưu ý sự khan hiếm của tất cả các loại tài nguyên (thiên nhiên, con người, tài chính); sản xuất, lưu kho, bảo quản và vận chuyển một cách bền vững. |
Gắn kết xã hội | Khả năng tiếp cận; nền văn hóa; đối thoại với các bên bên ngoài không bị hạn chế về ranh giới, sự đa dạng; công bằng; di sản; tính bao hàm; giảm sự bất bình đẳng; nguồn gốc; ý thức lệ thuộc và dịch chuyển về mặt xã hội |
Phúc lợi | Việc tiếp cận các cơ hội; khả năng sáng tạo, giáo dục; hạnh phúc; môi trường sức khỏe; cải thiện trước hết về vấn đề con người; đô thị đáng sống; sự phồn thịnh; chất lượng cuộc sống; an ninh; sự tự tin; phúc lợi. |
Nguồn: TCVN 37101:2018 |
Càng ngày các đô thị mong muốn đưa ra được tầm nhìn và mục tiêu chiến lược cho đô thị thông minh, đồng thời tìm cách thể hiện rõ trong tầm nhìn của mình những khác biệt so với đô thị hiện tại và thể hiện các khác biệt này bằng việc sử dụng mô hình kỹ thuật số, trực quan dữ liệu, phương tiện truyền thông xã hội và/hoặc các công nghệ khác. Các đặc điểm chung trong cách tiếp cận về đô thị thông minh được thể hiện rõ trong những tầm nhìn của các đô thị được nêu trong Bảng 2.
Bảng 2 – Các đặc điểm của “tính thông minh” được nêu rõ trong tầm nhìn của đô thị a)
Được kết nối với các cơ hội, không gian, địa điểm, thị trường | Minh bạch |
Cởi mở, hợp tác và trải nghiệm | Giàu tính học thuật |
Cùng có suy nghĩ chung về đô thị thông minh | Hài hòa |
Một nơi hấp dẫn, thân thiện, cởi mở để đến | Thông minh |
Thông tin tốt hơn, nhiều lựa chọn hơn, tiện lợi hơn, ít chất thải hơn | Bền vững và môi trường sống tốt |
Tính bao hàm | Kết nối với nhau |
Sáng tạo bùng nổ | Tự tin, mang tính diện rộng, sáng tạo |
Cung cầu cân bằng | Ra quyết định dựa trên sự kiện và kết quả đầu ra |
Nhanh chóng và thích nghi với nhu cầu thay đổi | Dự đoán/phục hồi trước những thách thức trong tương lai |
a) Dựa trên 29 nghiên cứu khả thi từ Chương trình Trình diễn Đô thị Tương lai đã đệ trình lên Hội đồng Chiến lược Công nghệ Anh năm 2012 [2] và tham vấn các bên liên quan của Cơ quan Tiêu chuẩn Anh Quốc (BSI) trong năm 2013. |
6.3.3 Các khuyến nghị
Do đó, các nhà lãnh đạo đô thị thông minh cần tạo lập một tầm nhìn tốt đẹp của đô thị cho hiện tại và trong tương lai mà:
- a) phù hợp với các mục đích cho những cộng đồng bền vững nêu trong TCVN 37101 và phản ánh các ưu tiên của địa phương;
- b) được phát triển theo cách lặp lại và hợp tác (như có sự tham gia của tất cả các bên quan tâm và thông tin rõ bằng việc nghiên cứu và cam kết của người sử dụng thông qua các phương tiện truyền thông xã hội và các công nghệ khác để cho phép sự tham gia của công chúng vào quá trình này);
- c) nắm bắt các cơ hội được mở ra nhờ các công nghệ, dữ liệu và sự hợp tác thông minh;
- d) tích hợp những điều này với tầm nhìn và mục đích kinh tế, xã hội, chính trị và môi trường cốt lõi cho tương lai của đô thị, thay vì xem chúng tách biệt khỏi các mục tiêu chiến lược cốt lõi của đô thị;
- e) sử dụng mô hình hóa kỹ thuật số, trực quan hóa dữ liệu và/hoặc các công nghệ khác để môi trường sống và môi trường làm việc đúng như tầm nhìn của đô thị cho tương lai;
- f) có thể đo lường được.
6.3.4 Sự liên kết
Tầm nhìn đô thị cần được thể hiện qua các nguyên tắc thực hiện [A] của đô thị và được phát triển thông qua sự cam kết hợp tác [B3] của tất cả các bên quan tâm. Tầm nhìn này cần được thể hiện dưới dạng các kết quả có thể đo lường được và một đường hướng rõ ràng được thiết lập giữa tất cả các hoạt động trong lộ trình và cung cấp các kết quả này cho đô thị. Hướng dẫn về cách thực hiện một cách hiệu quả được nêu trong Khung hiện thực hóa lợi ích [C].
6.4 Cấu phần [B2] – Sự lãnh đạo và điều hành
6.4.1 Bối cảnh
Việc xây dựng một tầm nhìn của đô thị [B1] có tính chia sẻ và thuyết phục đòi hỏi có sự lãnh đạo sâu sát; sau đó việc thực hiện tầm nhìn đòi hỏi sự lãnh đạo phải được duy trì bền vững trong nhiều năm và gắn kết trong các quy trình điều hành hiệu quả.
6.4.2 Nhu cầu
Các đô thị thông minh cần tìm ra những cách thức hiệu quả nhất để trao quyền và tạo thuận lợi cho việc lãnh đạo trên diện rộng, bao quát tất cả các bên quan tâm.
Các chương trình đô thị thông minh không thể thực hiện thành công được nếu chỉ dựa trên những cấu trúc chương trình truyền thống từ trên xuống.
Không có một cấu trúc lãnh đạo lý tưởng đối với chương trình đô thị thông minh. Sắp đặt vị trí đội ngũ lãnh đạo một cách tối ưu tùy thuộc bối cảnh của từng đô thị. Tuy nhiên, kinh nghiệm thực tế trên thế giới cho thấy các yếu tố sau là những yếu tố rất quan trọng để tìm ra cách thức phù hợp nhất cho bối cảnh cụ thể của đô thị:
- a) Chú trọng đến trách nhiệm giải trình của chính quyền địa phương. Ở cả cấp độ quản trị và chính trị, cấp chính quyền địa phương phải có trách nhiệm rõ ràng đối với chương trình đô thị thông minh. Các chức năng, nhiệm vụ cần được giao cho những cá nhân với quyền hạn thích hợp để tiến hành việc phân bổ nguồn lực và các ưu tiên về mặt tổ chức.
- b) Xây dựng một đội ngũ lãnh đạo rộng khắp trên toàn đô thị. Không nhất thiết là tất cả các bên quan tâm đều cam kết tham gia chương trình đô thị thông minh này ngay từ đầu. Yêu cầu chính của việc xây dựng và quản lý lộ trình của đô thị thông minh [B7] là làm sao thúc đẩy và hỗ trợ chiến lược này trong suốt quá trình thực hiện. Tuy nhiên, điều quan trọng là không nên coi chương trình đô thị thông minh này là sáng kiến có tính tập trung hoặc từ trên xuống chỉ do chính quyền địa phương tiến hành. Do đó, việc chia sẻ vai trò lãnh đạo về thiết kế và thực hiện chương trình với các đội ngũ lãnh đạo của các khu vực và tổ chức khác trên toàn đô thị là rất quan trọng.
- c) Phối hợp các nhà lãnh đạo đô thị để điều hành một cách hiệu quả. Các hệ thống điều hành liên ngành, toàn đô thị cần phải được thiết lập ở hai cấp độ:
1) cấp điều hành chiến lược: tập trung vào việc xác định các kết quả cần thiết của chương trình đô thị thông minh và đảm bảo Khung hiện thực hóa lợi ích [C] có hiệu quả;
2) cấp điều hành thực hiện: tập trung vào việc thực hiện lộ trình của đô thị thông minh [B7].
- d) Triển khai các nguyên tắc quản lý chương trình chính thức. Để thực hiện việc chuyển đổi trên toàn đô thị có hiệu quả, điều tối quan trọng là phát triển và quản lý danh mục các chương trình và dự án cùng hướng tới thực hiện tầm nhìn về đô thị thông minh. Khi nhiều bên tham gia trên toàn đô thị cùng quản lý các chương trình và dự án này thì các bên cần phối hợp với nhau trong một chương trình chiến lược tổng thể với:
1) một kế hoạch hoạt động tổng thể, đo lường được các chỉ số thành công;
2) ưu tiên các hoạt động và những thay đổi của chương trình, dựa trên hiệu quả hoạt động và các tiêu chí phản hồi gắn kết với các nguyên tắc thực hiện [A] của đô thị;
3) các khuôn khổ chung để quản lý những rủi ro chiến lược, các vấn đề và hạn chế do các đối tác thực hiện mang lại.
- e) Đảm bảo sự kết hợp các kỹ năng thích hợp trong đội ngũ lãnh đạo. Sự lãnh đạo có hiệu quả đối với một chương trình đô thị thông minh đòi hỏi các nhà lãnh đạo có trách nhiệm phải kết hợp được các kỹ năng chính trong đội ngũ lãnh đạo, bao gồm: kỹ năng phát triển chiến lược, kỹ năng tham gia của các bên liên quan, kỹ năng tiếp thị, kỹ năng thương mại và kỹ năng quản lý công nghệ. Triển khai một khung năng lực chính thức, chẳng hạn như khung kỹ năng về thông tin, có thể hữu ích cho việc xác định và xây dựng các bộ kỹ năng thích hợp.
- f) Cho phép sự tiến triển của các tổ chức theo thời gian. Những đóng góp của các tổ chức tư nhân và tình nguyện có thể phải tuân thủ các cam kết trong quá trình tham gia. Các tổ chức được hình thành, tiến triển và cuối cùng là sát nhập hoặc giải thể. Sự kết nối của các tài sản và dịch vụ của đô thị thông minh cần được quản lý một cách chủ động trong suốt quá trình tiến triển này.
- g) Đảm bảo quá trình điều hành mở và minh bạch. Tính minh bạch là quan trọng để xây dựng niềm tin, tăng cường trách nhiệm giải trình đối với việc thực hiện chương trình đô thị thông minh và tạo điều kiện cho sự công khai và sự hợp tác với tất cả các bên quan tâm. Điều này có nghĩa là sự lãnh đạo một chương trình đô thị thông minh cần hướng vào việc công bố tất cả các tài liệu chính thức về tầm nhìn và chiến lược, các thông tin chi tiết về danh tính và địa chỉ liên hệ của các nhà lãnh đạo chương trình và thường xuyên cập nhật về hiệu quả hoạt động và việc thực hiện theo lộ trình đô của thị thông minh [B7]. Điều này bao gồm cả việc báo cáo tiến độ rõ ràng theo các cam kết trong lộ trình về sự cam kết hợp tác [B3] và áp dụng kỹ thuật số và quản lý kênh [B11].
Các công cụ hỗ trợ công nghệ thông tin ngày càng có sẵn cho các đô thị để hỗ trợ việc thực hiện tất cả các yếu tố nêu trên, nhất là những công cụ được tăng cường bằng trực quan.
6.4.3 Các khuyến nghị
Các nhà lãnh đạo đô thị thông minh cần thiết lập các chế định về lãnh đạo và điều hành để đảm bảo:
- a) thực sự chú trọng về trách nhiệm giải trình trong chính quyền địa phương;
- b) có đội ngũ lãnh đạo rộng khắp đô thị;
- c) có sự phối hợp chặt chẽ giữa các nhà lãnh đạo đô thị trong các lĩnh vực để xây dựng những chính sách điều hành có hiệu quả ở cả các cấp độ chiến lược và thực hiện;
- d) triển khai các nguyên tắc quản lý chương trình chính thức và ưu tiên các hoạt động và những thay đổi trong chương trình, dựa trên hiệu quả hoạt động và tiêu chí phản hồi;
- e) sự hòa hợp các kỹ năng chuẩn trong đội ngũ lãnh đạo;
- f) khả năng tiến triển của các tổ chức có liên quan trong quá trình triển khai;
- g) quy trình điều hành mang tính mở và minh bạch, bao gồm cả việc tham gia của người dân bằng hình thức kỹ thuật số.
6.4.4 Sự liên kết
Nhiệm vụ chính về lãnh đạo chương trình đô thị thông minh bao gồm:
- a) trao đổi thông tin và hành động như những người giám sát các nguyên tắc thực hiện [A] đối với chương trình đô thị thông minh;
- b) đảm bảo rằng chương trình này phù hợp để thực hiện tầm nhìn của đô thị [B1] một cách rõ ràng, thuyết phục và được đồng thuận;
- c) đóng vai trò là người dẫn đầu và người đại diện đối với cách tiếp cận về đô thị thông minh được xem như là một phần của sự cam kết hợp tác [B3] và tiến hành các chính sách lấy người dân làm trung tâm và hỗ trợ kỹ thuật số đối với áp dụng kỹ thuật số và quản lý kênh [B11];
- d) xây dựng và giám sát lộ trình của đô thị thông minh [B7]; và
- e) đảm bảo đường hướng cho toàn bộ lộ trình và các kết quả chiến lược đạt được từ chương trình này thông qua Khung hiện thực hóa lợi ích [C] của đô thị thông minh.
6.5 Cấu phần [B3] – Sự cam kết hợp tác
6.5.1 Bối cảnh
Sự hợp tác có hiệu quả ở diện rộng của các bên quan tâm là rất quan trọng. Việc thiết lập quá trình thay đổi mang tính bền vững đòi hỏi số lượng lớn những người tham gia trực tiếp và gián tiếp của chính quyền đô thị cùng tham gia và hỗ trợ lẫn nhau. Việc thực hiện tầm nhìn của đô thị [B1] không thể thực hiện được nếu không có sự hợp tác cần thiết này.
6.5.2 Nhu cầu
Các chương trình đô thị thông minh không thể thực hiện thành công được nếu chỉ do chính quyền địa phương tiến hành. Phạm vi của sự thay đổi và nhu cầu cam kết lâu dài đòi hỏi đầu tư (về thời gian, kinh phí và sự khích lệ) từ rất nhiều bên quan tâm
Các bên quan tâm được xem là bất kỳ tổ chức hoặc các nhân nào bị tác động bởi chương trình này.
Việc kết hợp các bên quan tâm tham gia vào việc hoạch định, thực hiện và duy trì chương trình đô thị thông minh là rộng và phức tạp. Có thể có nhiều loại hình bên quan tâm khác nhau với các mục tiêu, yêu cầu và mức độ cam kết khác nhau. Các loại hình bên quan tâm có thể bao gồm:
- a) Các nhà tài trợ: Những người quan tâm đến việc bảo trợ, ủng hộ tích cực chương trình này, bao gồm: các đại diện được bầu tại địa phương; chính quyền trung ương; các nhóm người tiêu dùng (chẳng hạn như doanh nghiệp, nhà cung ứng cho chương trình và giới truyền thông). Loại hình này cũng bao gồm bất kỳ bên liên quan nào không ủng hộ chương trình này;
- b) Các nhà đầu tư: Những người đầu tư nguồn lực cho chương trình, bao gồm: các định chế tài chính; chính quyền trung ương; các doanh nghiệp có lợi tức đầu tư của họ thông qua kết quả của chương trình (chẳng hạn như các nhà cung ứng);
- c) Những người thụ hưởng: Những người tham gia vào việc thực hiện chương trình, bao gồm: các đơn vị kinh doanh nội bộ của chính quyền địa phương; các đối tác, chẳng hạn như các khu vực kinh doanh, giáo dục và phi lợi nhuận; các nhà cung ứng;
- d) Những người tiêu dùng: Những người bị tác động bởi chương trình, bao gồm: người dân (cá nhân, cộng đồng và tổ chức); các doanh nghiệp; những người làm việc và sinh sống tại đô thị, cũng như những người đến tham quan đô thị.
- e) Các bên quan tâm bên ngoài: Những người không trực tiếp tham gia vào chương trình nhưng sẽ bị ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp, bao gồm: chính quyền trung ương; chính quyền địa phương và các tổ chức khu vực công; các doanh nghiệp có quan tâm đến tác động của chương trình; giới truyền thông.
Danh mục nêu trên có thể chưa bao gồm đầy đủ các loại hình và được đưa ra nhằm minh họa sự đa dạng của các bên quan tâm trong đô thị. Các bên quan tâm thuộc các nhóm khác nhau với những nhu cầu, kỳ vọng và đóng góp khác nhau và hơn nữa, nhiều bên quan tâm có thể được kỳ vọng thuộc về nhiều loại hình với các nhu cầu khác nhau vào các thời điểm khác nhau trong thời gian thực hiện chương trình này.
Cách nhìn nhận này của các bên quan tâm đa dạng và phức tạp nên cần được chủ động quản lý thông qua chương trình này.
Các công việc của lộ trình của đô thị thông minh [B7] có sự cam kết về hợp tác cũng là cơ chế mà thông qua đó các nhu cầu và nguyện vọng của các bên quan tâm có thể được tinh lọc và thể hiện trong chương trình này.
6.5.3 Các khuyến nghị
Các nhà lãnh đạo đô thị thông minh cần thiết lập, đưa ra các ưu tiên và cung cấp đầy đủ nguồn lực cho chương trình chính thức được quản lý và có sự cam kết hợp tác với tất cả các bên quan tâm. Chương trình này cần chỉ định một lãnh đạo hay giám đốc điều hành và được tích hợp với vai trò của tất cả những người tham gia thực hiện chương trình của đô thị thông minh này và cần bao gồm:
- a) Nhận thức và tham gia của các bên quan tâm: đảm bảo rằng tất cả các bên quan tâm (ví dụ: những người sử dụng, các nhà cung ứng, các đối tác thực hiện ở khu vực công, tư và tình nguyện, lãnh đạo địa phương, giới truyền thông) thấu hiểu chương trình đô thị thông minh này, lợi ích của chương trình và có lộ trình hiệu quả (bao gồm cả việc sử dụng phương tiện truyền thông kỹ thuật số) để cam kết và tham gia vào chương trình này:
- b) Đối tác liên ngành: tham gia hiệu quả với các bên quan tâm từ các khu vực tư, công và tình nguyện để thực hiện chương trình này theo cách thức có lợi cho tất cả các bên;
- c) Sự cam kết với các đô thị khác: để học hỏi và trao đổi kinh nghiệm.
6.5.4 Sự liên kết
Thiết lập sự cam kết hợp tác được xem như một công việc chính thức trong lộ trình của đô thị thông minh [B7], với các chỉ số đo hiệu quả hoạt động có thể đo được và được nêu trong Khung hiện thực hóa lợi ích [C]. Sự cam kết hợp tác với các bên quan tâm làm cơ sở cho tất cả các phần khác của tiêu chuẩn này, bởi vì bất kỳ ai tham gia vào việc hiện thực hóa tầm nhìn đô thị thông minh (hoặc thu nhận các lợi ích từ kết quả của chương trình) được xem là bên quan tâm. Tuy nhiên, sự cam kết hợp tác đặc biệt quan trọng đối với tầm nhìn của đô thị [B1], sự lãnh đạo và điều hành [B2], quản lý việc mua sắm và nhà cung cấp [B4], trao quyền cho cộng đồng đô thị thông qua dữ liệu của đô thị [B8], thực hiện các dịch vụ tích hợp lấy người dân làm trung tâm [B9] và quản lý danh tính và quyền riêng tư [B10].
6.6 Cấu phần [B4] – Quản lý việc mua sắm và nhà cung cấp
6.6.1 Bối cảnh
Các chính quyền đô thị phụ thuộc rất nhiều vào những nhà cung ứng, một xu hướng đang gia tăng khi các chính quyền địa phương ngày càng xác định mình là bên ủy nhiệm chứ không phải là người cung cấp dịch vụ. Tuy nhiên, các mối quan hệ với nhà cung cấp cũ và các chính sách mua sắm thường gây ra những rào cản đáng kể cho việc phát triển đô thị thông minh.
6.6.2 Nhu cầu
Các đô thị cần xây dựng các chiến lược quản lý mua sắm và quản lý nhà cung cấp sao cho chúng đóng vai trò như những biện pháp hỗ trợ chứ không phải là những biện pháp cản trở tầm nhìn của đô thị đối với việc cung cấp dịch vụ tích hợp và lấy người dân làm trung tâm.
Các thực hành mua sắm của khu vực công có thể là một trở ngại đáng kể đối với việc thúc đẩy sự tăng trưởng của các đô thị thông minh. Từ cả khu vực công và khu vực tư nhân của thị trường, có các minh chứng cho thấy việc mua sắm các dịch vụ của đô thị theo cách truyền thống đang cản trở sự đổi mới, sáng tạo và ngăn cản khả năng của các đô thị và ngành công nghiệp cùng thực hiện nghiên cứu và phát triển thực tế cuộc sống.
Tương tự, ngày càng có sự đồng thuận về các cách tiếp cận mới, thông minh hơn đối với mua sắm công vốn đang bắt đầu phát triển và cần được áp dụng rộng rãi hơn.
CHÚ THÍCH Bảng 3 tóm tắt về một số yếu tố chính của sự thay đổi này.
Bảng 3 – Hướng tới việc mua sắm ở đô thị thông minh
Mua sắm đô thị truyền thông | Mua sắm của đô thị thông minh |
Mua sắm dựa trên cấu trúc theo chức năng với các yêu cầu được thiết lập bởi các đơn vị kinh doanh riêng lẻ trong đô thị… | Một cách tiếp cận chiến lược tích hợp về việc ủy nhiệm các dịch vụ thông qua các cơ quan của đô thị và trong mối quan hệ hợp tác với các tổ chức cung cấp dịch vụ của đô thị khác |
Ít khả năng tài trợ cho các giải pháp có lợi cho nhiều tổ chức | Các cơ chế điều chỉnh ngân sách cho phép cung cấp hiệu quả các nền tảng và dịch vụ chung tốt. |
Đô thị xác định công nghệ và các yếu tố đầu vào khác muốn mua, và các yêu tố đầu ra muốn cung cấp | Đô thị xác định các kết quả và mức độ dịch vụ muốn đạt được |
Các yêu cầu được phát triển trong nội bộ bởi đô thị | Các yêu cầu được phát triển lặp đi lặp lại, trong mối quan hệ đối tác giữa khách hàng, người ủy nhiệm và nhà cung cấp |
Đô thị đưa ra các yêu cầu cho thị trường theo kiểu nhỏ giọt | Rất nhiều yêu cầu cho tương được đưa ra giúp kích thích thị trường và cho phép các nhà cung cấp đề xuất các giải pháp tối ưu nhằm đáp ứng các yêu cầu đa dạng (cả bên trong và bên ngoài đô thị) |
Các đô thị xác định những yêu cầu tách biệt với nhau | Kết hợp các sáng kiến mua sắm, được hỗ trợ bởi những thay đổi được chia sẻ, cho phép các dịch vụ chia sẻ trên nhiều đô thị và còn kích thích thị trường về các giải pháp được tiêu chuẩn hóa và có thể tái lặp của đô thị. |
Việc mua sắm và ký kết hợp đồng dựa trên các mối quan hệ giữa người mua và nhà cung cấp, giữa đại lý và khách hàng | Một loạt các mô hình cung cấp dịch vụ có tính sáng tạo hơn được triển khai, bao gồm các công ty, liên doanh của đô thị và mối quan hệ đối tác giữa các đô thị, các ngành và học viện, trường học để thúc đẩy các giải pháp hợp tác trong khi vẫn bảo vệ được tài sản trí tuệ của mỗi bên. |
Các quyết định mua sắm tập trung chủ yếu vào giá | Các quyết định mua sắm tập trung chủ yếu vào giá trị lâu dài của đồng tiền, bao gồm:
– tổng chi phí sở hữu (bao gồm cả chi phí cho việc rút quyền sở hữu); – khả năng đổi mới của nhà cung cấp; – lòng tin vào việc thực hiện các lợi ích kinh doanh dự kiến. |
Công nghệ thông tin như là một khoản đầu tư vốn | Công nghệ thông tin như là một dịch vụ |
Các hợp đồng dài hạn, không thể thay đổi | Việc mua ngắn hạn, dựa trên nhu cầu |
Các giải pháp tích hợp theo chiều dọc thích hợp cho mỗi ngành nghề kinh doanh | Chia sẻ và sử dụng lại các cấu phần được tiêu chuẩn hóa, thiết kế trên các tòa nhà tốt nhất và các sản phẩm thương mại không cần quầy bán hàng |
Các hệ thống của đô thị không thể liên thông do sự quá tin cậy vào những hệ thống sở hữu độc quyền | Khả năng liên thông dựa trên các tiêu chuẩn mở được tính toán ngay từ trước khi mua sắm |
Các tệp dữ liệu quan trọng của đô thị không thể chia sẻ (mở) được vì chúng thuộc sở hữu của các nhà cung cấp | Các thỏa thuận hợp đồng chuẩn đảm bảo rằng tất cả các nhà cung cấp của đô thị đều sẵn có dữ liệu đô thị thông qua các tiêu chuẩn mở, hoặc là miễn phí hoặc nếu thích hợp có thể chia sẻ cùng khai thác một cách công bằng, hợp lý và không phân biệt đối xử |
Không khuyến khích các nhà cung cấp chia sẻ, hợp tác và đổi mới với các bên liên quan khác của đô thị | Các thỏa thuận hợp đồng khuyến khích sự hợp tác lẫn nhau để tạo ra giá trị mới và chia sẻ tài sản chung của đô thị với những lợi ích được chia sẻ giữa đô thị và các nhà cung cấp. |
Đô thị mua từ các nhà cung cấp lớn nhất định | Đô thị mua từ các nhà cung cấp nhỏ nhất định, cộng với các mối quan hệ chiến lược với một hoặc một vài nhà cung cấp nền tảng mà họ tự tích hợp với nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa. |
Lãnh đạo đô thị tập trung vào việc quản lý các mối quan hệ với một vài nhà cung cấp lớn | Lãnh đạo đô thị tập trung vào hỗ trợ và quản lý hệ sinh thái đổi mới, sáng tạo |
Hiện có sự nhìn nhận rằng đang có những rào cản bắt nguồn từ khuôn khổ pháp lý đối với việc mua sắm. Tuy nhiên, đây không phải là nguyên nhân chủ yếu: việc mua sắm thông minh, dựa vào kết quả có thể tương thích với tiền đề cơ bản của luật pháp quốc tế về mua sắm công, trong đó nêu rõ rằng các nhà chức trách cần xác định kết quả, chứ không phải là giải pháp công nghệ trong việc mua sắm của mình. Các rào cản chính bắt nguồn nhiều hơn từ văn hóa và thực tiễn mua sắm và có thể và cần được giải quyết ở cấp đô thị.
6.6.3 Các khuyến nghị
Các lãnh đạo của đô thị thông minh cần:
- a) Có quan điểm tích hợp về các yêu cầu mua sắm của đô thị, thiết lập các thỏa thuận điều hành cho phép có cái nhìn tổng quan trên phạm vi toàn đô thị về các hoạt động mua sắm chính của chính quyền đô thị và các tổ chức công chính khác hoạt động trong đô thị.
- b) Xem xét các chính sách mua sắm để đảm bảo tuân thủ các nguyên tắc ký kết hợp đồng của đô thị thông minh:
1) tập trung vào các kết quả hoạt động mua sắm: xác định nhà cung cấp đạt được gì chứ không phải là nhà cung cấp cần đạt được bằng cách nào (nhìn chung, điều này đề cập đến các dịch vụ mua sắm chứ không phải là tài sản);
2) xây dựng dữ liệu mở đối với tất cả các mua sắm: tất cả dữ liệu phải do đô thị sở hữu chứ không phải của nhà cung cấp, hoặc thiết lập các yêu cầu rõ ràng đối với nhà cung cấp để cung cấp dữ liệu thông qua các tiêu chuẩn mở và các điều khoản công bằng, hợp lý và không phân biệt đối xử;
3) khuyến khích đổi mới, sáng tạo và hợp tác: đảm bảo rằng các thỏa thuận hợp đồng khuyến khích sự hợp tác với những người khác để tạo ra giá trị mới và chia sẻ tài sản chung của đô thị;
4) tránh việc trói buộc nhà cung cấp bằng cách tích hợp các yêu cầu về khả năng liên thông với tất cả các mua sắm công nghệ thông tin và truyền thông, sử dụng các sản phẩm có sẵn và tiêu chuẩn mở bất cứ khi nào có thể và tính cả các chi phí cho việc rút khỏi hợp đồng ngay từ trước khi mua.
- c) Nuôi dưỡng hệ sinh thái đổi mới, sáng tạo trên toàn đô thị và cho các nhà cung cấp, bao gồm:
1) đưa ra các chính sách mua sắm của đô thị, đảm bảo rằng tất cả các thay đổi sau khi xem xét đều được phổ biến rộng rãi;
2) công bố và cập nhật các cơ hội mua sắm lớn của đô thị;
3) sự tham gia sớm và tham gia lại của các nhà cung cấp tiềm năng, bao gồm cả các doanh nghiệp vừa và nhỏ địa phương để hưởng lợi từ sự đổi mới, sáng tạo và để kích thích thị trường;
4) kích thích sự đổi mới, sáng tạo do doanh nghiệp vừa và nhỏ tiến hành bằng cách tổ chức các cuộc thi và đưa ra các yêu cầu về sự tham gia của các doanh nghiệp vừa và nhỏ đối với các nhà cung cấp lớn;
5) thúc đẩy những thay đổi về văn hóa và hành vi nội bộ được đề cập trong các khuyến nghị ở mục 1) đến 4).
6.6.4 Sự liên kết
Nhu cầu về nuôi dưỡng hệ sinh thái đổi mới, sáng tạo của các nhà cung cấp của đô thị phải được xem là một chủ đề chính của sự cam kết hợp tác [B3]. Khi xem xét, đánh giá các chính sách mua sắm của đô thị, các nhà lãnh đạo đô thị cần tìm cách điều chỉnh các nguyên tắc ký kết hợp đồng đối với kiến trúc công nghệ thông tin mở định hướng vào dịch vụ trên toàn đô thị [B14].
6.7 Cấu phần [B5] – Lập bản đồ các nhu cầu về khả năng liên thông của đô thị
6.7.1 Bối cảnh
Các nguyên tắc thực hiện [A] (xem Phụ lục A) tập trung vào nhu cầu chia sẻ, tái sử dụng các tài sản và dịch vụ của đô thị thông qua khả năng liên thông có thể thực hiện được bởi các tiêu chuẩn mở.
6.7.2 Nhu cầu
Các đô thị thông minh cần hiểu rõ và chỉ rõ các rào cản đối với khả năng liên thông.
Khả năng liên thông thật sự giữa các hệ thống của đô thị cần sự thay đổi không chỉ ở cấp độ kỹ thuật. Các đô thị cần thực hiện cách tiếp cận toàn diện về khả năng liên thông.
Trong những năm gần đây, các chính quyền và doanh nghiệp đã triển khai rất nhiều giải pháp đảm bảo khả năng liên thông giữa các hệ thống. Các giải pháp này chủ yếu tập trung vào các tiêu chuẩn và quy định kỹ thuật nhằm đảm bảo khả năng liên thông kỹ thuật và khả năng liên thông dữ liệu (hoặc về ngữ nghĩa). Tuy nhiên, khả năng liên thông thật sự giữa các hệ thống của đô thị hiện đang phải đối mặt với một loạt các rào cản phi kỹ thuật (như các rào cản về tổ chức và rào cản về pháp lý), do vậy các đô thị cũng cần phải xác định và giải quyết những rào cản này.
Tiêu chuẩn này khuyến cáo rằng các đô thị sử dụng ma trận ở Hình 5 để phác họa đầy đủ về các rào cản đối với khả năng liên thông mà các đô thị phải đối mặt. Do vậy, đô thị cần phải triển khai ba quá trình được xác định trong tiêu chuẩn này (quản lý chiến lược, quản lý dịch vụ, quản lý tài sản công nghệ và dữ liệu) và cụ thể hóa các quá trình này thành năm phạm vi về khả năng liên thông được chấp nhận rộng rãi: khả năng liên thông về kỹ thuật, ngữ nghĩa, tổ chức, pháp lý và chính sách.
Các rào cản đối với khả năng liên thông sẽ khác biệt giữa các đô thị nhưng cần có hành động cụ thể tương ứng với ma trận này. Với mục đích minh họa, Hình 5 đưa ra một số loại chính sách chủ yếu mà các đô thị có thể sử dụng để giải quyết các rào cản này. Mỗi loại chính sách được tham chiếu chéo với từng cấu phần của tiêu chuẩn này, đồng thời hướng dẫn về các hoạt động cần thiết để xây dựng chính sách đó.
CHÚ THÍCH Theo tiêu chuẩn này, “loại chính sách” được định nghĩa là bất kỳ tài liệu dưới dạng văn bản được sử dụng để định hình, hướng dẫn và thực hiện hoạt động của đô thị thông minh. Ví dụ: các chính sách, tiêu chuẩn, nguyên tắc và khung chính sách dạng văn bản.
Hình 5 – Ma trận về khả năng liên thông của đô thị thông minh
6.7.3 Các khuyến nghị
Các nhà lãnh đạo của đô thị thông minh cần sử dụng ma trận về khả năng liên thông của đô thị thông minh làm công cụ để:
- a) giúp xác định các rào cản chính đối với khả năng liên thông trong đô thị;
- b) thiết lập các chính sách và hành động để giải quyết các vấn đề này, dựa trên các tiêu chuẩn quốc gia, tiêu chuẩn quốc tế, tiêu chuẩn khu vực và tiêu chuẩn nước ngoài nếu có thể;
- c) thúc đẩy tính phổ biến của các phương pháp tiếp cận và những liên kết dễ dàng hơn với các đô thị khác và các chính quyền của địa phương và quốc gia khác.
6.7.4 Sự liên kết
Thông tin chi tiết về khả năng liên thông kỹ thuật và ngữ nghĩa được đề cập trong kiến trúc công nghệ thông tin mở, định hướng vào dịch vụ trên toàn đô thị [B14]. Các chính sách và hành động để xử lý các rào cản được xác định thông qua việc lập bản đồ về khả năng liên thông này và cần được đề cập như là một phần của lộ trình của đô thị thông minh [B7].
6.8 Cấu phần [B6] – Thiết lập thuật ngữ và mô hình tham chiếu chung
6.8.1 Bối cảnh
Tiêu chuẩn này hỗ trợ các chương trình đô thị thông minh có quy mô rộng và phức tạp. Tất cả các bên quan tâm tham gia vào việc thực hiện chương trình này cần có sự thấu hiểu chung về các khái niệm chính có liên quan và cách thức các khái niệm này tương tác, đồng thời các bên cần có ngôn ngữ chung để mô tả các khái niệm này.
6.8.2 Nhu cầu
Sự lãnh đạo và truyền thông đều không có tác dụng nếu các bên quan tâm hiểu và sử dụng các thuật ngữ và khái niệm theo những cách thức rất khác nhau, dẫn đến sự mơ hồ, sự hiểu lầm và khả năng mất đi sự cam kết của tổ chức.
Các khái niệm không tồn tại một cách riêng biệt. Ngoài các định nghĩa rõ ràng và các điều khoản đã thống nhất, cần có sự hiểu rộng hơn về các mối quan hệ giữa các khái niệm để hiểu đầy đủ hơn ý nghĩa của chúng và cho phép chúng ta lập mô hình bối cảnh, các hoạt động kinh doanh và các bên liên quan của chúng ta theo cách làm gia tăng khả năng hỗ trợ của các hệ thống kỹ thuật số đối với các công việc cần triển khai. Bất kỳ đối tác nào tham gia vào chương trình đô thị thông minh đều cần thống nhất sử dụng thuật ngữ chung và đảm bảo rằng các thuật ngữ này được sử dụng nhất quán trong suốt quá trình triển khai.
6.8.3 Các khuyến nghị
Các lãnh đạo đô thị thông minh cần:
- a) đảm bảo rằng tất cả các bên quan tâm đều có sự hiểu biết rõ ràng, nhất quán và phổ biến về các khái niệm chính liên quan đến phát triển đô thị thông minh; mối quan hệ giữa các khái niệm này; cách thức các khái niệm này có thể được mô hình hóa chính thức; cách thức các mô hình này có thể được sử dụng và tích hợp vào các kiến trúc thông tin mới và hiện có.
- b) tìm kiếm sự thỏa thuận giữa các bên quan tâm để thiết lập và duy trì hệ thống thuật ngữ và mô hình tham chiếu chung được chấp thuận và chia sẻ.
6.8.4 Sự liên kết
Các thuật ngữ và định nghĩa về đô thị thông minh và các mô hình tham chiếu được nêu trong ISO/IEC 30182 và ISO 37100.
6.9 Cấu phần [B7] – Lộ trình của đô thị thông minh
6.9.1 Bối cảnh
Công việc hướng tới việc thực hiện tầm nhìn của đô thị [B1] theo cách thức thông minh cần được củng cố bằng một lộ trình hiệu quả.
6.9.2 Nhu cầu
Các đô thị cần phát triển lộ trình cho đô thị thông minh mà lộ trình này là một dạng kế hoạch thực hiện trong thực tế, nghĩa là không chỉ là một kế hoạch mang tính tổng thể (dễ đổ vỡ và thất bại) mà là một khung chương trình mang tính thực tiễn có thể đạt được các kết quả dự kiến trong từng giai đoạn cụ thể.
Các đô thị khác nhau ở các giai đoạn phát triển khác nhau trong quá trình tiến triển theo hướng mô hình hoạt động chuyển đổi được mô tả trong các hướng dẫn của tiêu chuẩn này và có thể có những kết quả rất khác nhau mà các đô thị mong đạt được như trong tầm nhìn của của đô thị [B1]. Vì vậy, có thể không có một lộ trình phù hợp cho mọi đô thị.
Một lộ trình cho đô thị thông minh hiệu quả cho mọi đô thị thường có cách tiếp cận theo giai đoạn và mang tính gia tăng. Cách tiếp cận này không vượt ra ngoài khuôn khổ kế hoạch dự kiến ban đầu nhưng vẫn đưa ra một khuôn khổ cho một quá trình thay đổi có tính tổ chức, dựa vào thị trường nhằm đáp ứng tầm nhìn của đô thị trong quá trình triển khai. Do đó, một lộ trình cho đô thị thông minh điển hình có thể gồm năm giai đoạn chính như được minh họa trong Bảng 4.
Bảng 4 – Các giai đoạn của lộ trình cho đô thị thông minh
Kế hoạch
Việc chuẩn bị và lập kế hoạch là rất cần thiết đối với việc phát triển một lộ trình phù hợp cho đô thị nhằm đảm bảo rằng tình huống hoạt động được triển khai thuận lợi và tất cả các bên quan tâm chính đều được tham gia và đóng góp vào quá trình phát triển này. Các kết quả chính của giai đoạn này bao gồm: [A] Các nguyên tắc thực hiện: tập hợp các nguyên tắc đã thống nhất mà các bên quan tâm và các đối tác thực hiện tìm cách hướng tới trong khi thực hiện lộ trình cho đô thị thông minh; [B1] Tầm nhìn của đô thị: tài liệu do lãnh đạo cấp cao ban hành để đưa ra tầm nhìn tương lai đã được thống nhất của đô thị; [C] Khung hiện thực hóa lợi ích, bao gồm: – tình huống hoạt động chiến lược, đưa ra các chi phí và lợi ích chính gắn kết với chương trình của đô thị thông minh; – kế hoạch hiện thực hóa lợi ích ở cấp cao, đưa ra các hành động cần thiết để đảm bảo thực hiện đầy đủ các lợi ích dự kiến của chương trình chuyển đổi. [B7] Lộ trình của đô thị thông minh: kế hoạch chuyển đổi trong nhiều năm bao gồm: – thực hiện các quá trình lãnh đạo và điều hành [B2]; – luồng công việc về sự cam kết hợp tác [B3]; – xây dựng và thực hiện chiến lược quản lý mua sắm và nhà cung cấp [B4] một cách thông minh; – tích hợp việc hoạch định về kỹ thuật và kỹ thuật số đối với đô thị như được khuyến cáo trong quản lý các phát triển và hạ tầng của đô thị thông minh [B12]; – các kế hoạch về lập bản đồ công nghệ thông tin và tài sản kỹ thuật số, hướng tới kiến trúc công nghệ thông tin mở định hướng vào dịch vụ trên toàn đô thị [B14] cần thiết để hỗ trợ cho việc chuyển đổi mô hình hoạt động của đô thị; – mọi hành động ưu tiên bổ sung được xác định như là kết quả của việc lập bản đồ các nhu cầu về khả năng liên thông của đô thị [B5]; – chiến lược quản lý rủi ro nhằm đảm bảo rằng quá trình thực hiện giải quyết có hiệu quả các rủi ro chính [D] của đô thị thông minh. |
Khởi đầu
Trong giai đoạn thực hiện đầu tiên này, chú trọng tối đa đến việc xây dựng các giải pháp quản lý để giảm thiểu các rủi ro. Do đó cần tập trung đặc biệt vào: a) đạt được kết quả nhanh chóng nhằm chứng minh sự tiến bộ và lợi ích mang lại, sử dụng ít hoặc không mất chi phí về công nghệ, tạo được niềm tin và sự tự tin đối với các bên quan tâm; và b) gắn kết lộ trình này với các cấu trúc điều hành và các quá trình cần thiết để làm cơ sở cho việc xác định tất cả các khoản đầu tư trong tương lai. |
Thực hiện
Trong giai đoạn này, một số khoản đầu tư quan trọng hơn được rót vào, ví dụ: nền tảng dữ liệu mở để hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ và sự đổi mới, sáng tạo do cộng đồng dẫn dắt cùng với dữ liệu của đô thị, các nền tảng cung cấp dịch vụ công một cửa cho khách hàng, làn sóng đầu tiên của các dịch vụ thông minh và các ứng dụng từ những tổ chức cung cấp hoặc các tổ chức ứng dụng tại đô thị. |
Củng cố
Trong giai đoạn này, chú trọng đến việc thúc đẩy các dịch vụ và ứng dụng đô thị thông minh ban đầu, học hỏi từ dữ liệu thông minh và phản hồi của người dùng, đồng thời sử dụng phản hồi này để quy định các thay đổi về kiến trúc hoạt động và công nghệ đang được phát triển như những giải pháp chiến lược trong dài hạn. |
Chuyển đổi
Cuối cùng, khi các dịch vụ của đô thị thông minh được tiếp cận một cách tối đa, chương trình này sẽ xây dựng thêm nhiều dự án đô thị thông minh và hoàn thành quá trình chuyển đổi sang nền tảng công nghệ thông tin đầy đủ mang tính chiến lược nhằm đảm bảo sự phát triển kịp thời trong tương lai trước sự thay đổi về các ưu tiên trong hoạt động và của khách hàng. |
6.9.3 Các khuyến nghị
Các lãnh đạo của đô thị thông minh cần:
- a) thiết lập lộ trình cho đô thị thông minh theo từng giai đoạn.
- b) làm việc với các bên quan tâm để xác định tập hợp các dịch vụ và các công việc ban đầu của đô thị thông minh cho thấy thành công nhanh chóng đối với đô thị.
- c) ưu tiên những thay đổi mà có thể được thực hiện nhanh chóng với chi phí thấp và rủi ro thấp.
- d) thiết lập các hệ thống để sớm học hỏi từ kinh nghiệm của khách hàng, cải tiến các dịch vụ trên cơ sở những điều đã học hỏi được và sau đó nâng cao hơn nữa.
- e) làm việc sớm với những người có trách nhiệm xem xét, phê duyệt lộ trình này của chính quyền địa phương và các tổ chức đối tác nhằm đưa ra những hình mẫu và những tổ chức dẫn đầu của địa phương, từ đó học hỏi kinh nghiệm và thúc đẩy quá trình chuyển đổi lâu dài.
6.9.4 Sự liên kết
Cần theo dõi việc thực hiện lộ trình cho đô thị thông minh và chú trọng đến việc quản lý rủi ro. Do đó cần xác định rõ các điểm cần kiểm soát tại từng giai đoạn chính để xem xét, đánh giá độc lập, thường xuyên hiệu quả hoạt động đối với các rủi ro chính [D].
6.10 Quản lý dịch vụ lấy người dân làm trung tâm
Điều này đề cập đến cách thức lập kế hoạch và triển khai các dịch vụ của đô thị cho các người dân và doanh nghiệp, cần chú trọng đến các thay đổi cần thiết tại các đô thị nhằm đảm bảo việc triển khai thực hiện các dịch vụ gắn kết chặt chẽ hơn với các nguyên tắc thực hiện [A].
Trọng tâm của cách tiếp cận này đối với việc quản lý dịch vụ được khuyến nghị trong tiêu chuẩn này chính là cách tiếp cận song song đối với việc chuyển đổi thông minh của các dịch vụ tại đô thị, cụ thể là:
- a) Thứ nhất, tăng cường số hóa các dịch vụ và tài sản của đô thị đem lại một cơ hội lớn giúp đô thị cởi mở hơn đối với những đổi mới, sáng tạo từ bên ngoài. Vì vậy, các chương trình đô thị thông minh cần tìm cách thúc đẩy điều này bằng cách tạo điều kiện và khuyến khích phát triển một “thị trường thông tin” mới cho đô thị, trong đó các hệ thống của đô thị được mở ra công khai cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các doanh nghiệp xã hội và người dân để tự thiết kế và cung cấp các dịch vụ của đô thị, kết hợp dữ liệu của đô thị với các dữ liệu khác và tạo ra nhiều giá trị công mới. Điều này được đề cập trong hướng dẫn trao quyền cho cộng đồng đô thị thông qua dữ liệu của đô thị [B8].
- b) Thứ hai, tự chính quyền địa phương (cùng với các nhà cung cấp dịch vụ chính khác trong đô thị) có trách nhiệm thúc đẩy việc cải tiến đối với các dịch vụ của đô thị thông qua việc áp dụng nhiều hơn nữa dữ liệu thông minh và cách thức làm việc lấy người dân làm trung tâm. Điều này được đề cập trong hướng dẫn thực hiện các dịch vụ tích hợp lấy người dân làm trung tâm [B9].
Ngoài ra còn có hai hợp phần khác trong trong tiêu chuẩn này hướng đến việc hỗ trợ cách tiếp cận song song nêu trên là:
– [B10] Quản lý danh tính và quyền riêng tư; và
– [B11] Chiến lược áp dụng kỹ thuật số và quản lý kênh.
6.11 Cấu phần [B8] – Trao quyền cho cộng đồng đô thị thông qua dữ liệu của đô thị
6.11.1 Bối cảnh
Các nguyên tắc thực hiện [A] nêu bật tầm quan trọng của việc mở dữ liệu của đô thị nhằm thúc đẩy sự đổi mới, sáng tạo và tạo ra giá trị mới và trao quyền cho người dân và doanh nghiệp trong đô thị để tự họ tạo ra giá trị công bằng dữ liệu của đô thị.
6.11.2 Nhu cầu
Các đô thị thông minh tìm cách huy động người dân và doanh nghiệp với tư cách là chủ sở hữu và những người tham gia vào việc hình thành và thực hiện các dịch vụ của đô thị chứ không phải với tư cách là người thụ hưởng dịch vụ.
Việc người dân, doanh nghiệp và các bên liên quan có được quyền này có thể là một động lực mạnh mẽ cho sự chuyển đổi về dịch vụ, nhưng đồng thời cũng tạo ra một số rào cản cần được giải quyết.
Việc triển khai thực hiện dịch vụ ở một đô thị thông minh không phải là công việc do chính quyền địa phương làm cho người dân mà là công việc trong đó cả người dân và chính quyền địa phương đều là người cùng tạo lập dịch vụ (hoặc thậm chí có các dịch vụ công được thực hiện trực tiếp giữa người dân với người dân mà không có hoặc có sự tham gia ở mức tối thiểu của chính quyền đô thị). Những người đổi mới ở các đô thị là những người tạo ra sự thay đổi này và đang khởi đầu cho việc phát triển hàng loạt các cách thức mới nhằm tạo ra giá trị công và tăng cường các dịch vụ như mô tả trong Hình 6.
Những thay đổi như vậy bắt đầu diễn ra cho dù các đô thị có lập kế hoạch cho những thay đổi này hay không, được định hướng bởi việc gia tăng sử dụng các phương tiện truyền thông xã hội cùng với những mong muốn ngày càng cao của người dân về mức độ tương tác với các dịch vụ (các mong muốn ngày càng tăng nhờ vào những lợi ích của kỹ thuật số tốt nhất do khu vực tư nhân cung cấp trên toàn cầu).
Rất nhiều các dự án về đô thị thông minh sẽ được các cá nhân, cộng đồng và doanh nghiệp thực hiện có sử dụng công nghệ sẵn có trong thị trường mở, nhưng có nhiều nhà lãnh đạo và tổ chức của đô thị có thể giúp các bên quan tâm tiếp cận tốt hơn đến thị trường này. Ví dụ, hiểu về cách thức các phương tiện truyền thông xã hội và điện thoại thông minh có thể là những tác nhân mạnh mẽ cho những hoạt động và kinh doanh của cộng đồng, tuy nhiên sự hiểu biết này được phổ biến còn rất hạn đối với người dân. Một số chương trình có tính hiệu quả nhất về truyền bá nhận thức lại là những hoạt động mang tính chất tình nguyện hoặc do cộng đồng đóng vai trò chủ đạo.
Hình 6 – Đổi mới, sáng tạo dịch vụ bằng việc trao quyền cho các bên liên quan
Các chương trình đô thị thông minh có thể tìm cách nắm bắt và đẩy nhanh những thay đổi thông qua các biện pháp được minh họa trong Hình 7.
Tác nhân thúc đẩy quan trọng chính là việc thiết lập nền tảng dữ liệu mở cho đô thị nhằm đưa dữ liệu của đô thị đến với người dân, doanh nhân, nhà cung cấp dịch vụ công và các bên liên quan tại đô thị. Tuy nhiên, trong khi nền tảng dữ liệu mở đem lại tiềm năng đáng kể cho sự đổi mới thì kinh nghiệm từ các đô thị trên khắp thế giới cho thấy nếu chỉ nhờ vào sự hỗ trợ của công nghệ sẽ không thể mang lại kết quả như vậy. Sự thay đổi trong hoạt động là rất quan trọng và điều này cần được giải quyết ở hai cấp độ như được minh họa trong Hình 7.
Hình 7 – Triển khai thực hiện việc trao quyền cho các bên liên quan
Thứ nhất, các đô thị cần kiểm soát sự thay đổi ngược chiều của nền tảng dữ liệu, nghĩa là làm việc với các chủ sở hữu dữ liệu trên toàn đô thị về sự thay đổi văn hóa nội bộ (từ các khu vực công, tư và tình nguyện) để đảm bảo sự sẵn sàng và khả năng cung cấp dữ liệu cho nền tảng đó, đồng thời giải quyết các rào cản đối với việc công khai dữ liệu. Các rào cản này bao gồm các rào cản về văn hóa cũng như rào cản về kỹ thuật (cho thấy rõ truyền thống về kiểm soát dữ liệu của đô thị dựa vào cấu trúc theo chức năng mang tính nội bộ) và đòi hỏi sự lãnh đạo mang tính bền vững trong thời gian dài. Các hành động minh họa mà có thể được đưa vào lộ trình của đô thị thông minh [B7], bao gồm:
- a) tạo lập sự phối hợp giữa chính quyền địa phương và các chủ sở hữu dữ liệu lớn khác trong đô thị, cùng cam kết tăng số lượng các tập dữ liệu được cung cấp và sử dụng trên nền tảng này:
- b) xây dựng tầm nhìn và tình huống hoạt động được chia sẻ về giá trị nhằm tạo ra dữ liệu thông minh hơn, mở hơn và có khả năng tương thích hơn trong đô thị;
- c) thống nhất một bộ nguyên tắc về quản lý dữ liệu trong tương lai mà các chủ sở hữu dữ liệu cam kết tuân thủ, bao gồm việc sử dụng các tiêu chuẩn dữ liệu mở và xếp hạng 5 sao cho dữ liệu mở [2]:
- d) xây dựng bản đồ ưu tiên về các tài sản dữ liệu chính trên toàn đô thị và lộ trình hội tụ các tài sản này theo các nguyên tắc và tiêu chuẩn đã được thống nhất;
- e) thúc đẩy các dự án có tính trình diễn và ủng hộ mạnh mẽ những lợi ích đạt được của các tổ chức đã triển khai từ đầu.
Thứ hai, các đô thị cần kiểm soát sự thay đổi xuôi chiều của nền tảng dữ liệu, nghĩa là tạo điều kiện thuận lợi cho nhu cầu thị trường xuất phát từ người dân, doanh nghiệp và các bên quan tâm khác. Các hành động minh họa có thể được đưa vào lộ trình của đô thị thông minh [B7], bao gồm:
1) thiết lập khung chính sách rõ ràng và dễ hiểu về các quyền và trách nhiệm đối với dữ liệu mở của đô thị, trong đó:
- a) lấy việc bảo vệ quyền riêng tư cá nhân làm trọng tâm:
- b) tạo ra một sân chơi bình đẳng giữa các tổ chức của các khu vực công, tư và tình nguyện để phát triển các dịch vụ dựa trên dữ liệu của đô thị;
- c) giúp người dân an tâm rằng dữ liệu của họ được quản lý, tuân thủ tất cả các quy định có liên quan;
2) phát triển và xây dựng thành văn bản một bộ mô hình hoạt động bền vững về cung cấp và sử dụng dữ liệu thông qua nền tảng này (bao gồm việc công bố dữ liệu công miễn phí, công bố dữ liệu công với chi phí bổ sung để trang trải chi phí dịch vụ giá trị gia tăng và công bố dữ liệu trên cơ sở đăng ký thương mại);
3) tăng cường nền tảng dữ liệu mở của đô thị nhằm cung cấp các công cụ tạo điều kiện cho việc khai thác và kiểm nghiệm dữ liệu của đô thị do các nhà phát triển ứng dụng thực hiện;
4) kích thích thị trường cùng với việc hỗ trợ kinh phí để khuyến khích sự phát triển các ứng dụng liên quan đến dịch vụ, có tính sáng tạo nhằm vào giải quyết các thách thức của đô thị;
5) hỗ trợ các bên liên quan, các quan hệ hợp tác do cộng đồng đóng vai trò dẫn dắt và các chương trình cho phép các cá nhân, cộng đồng và doanh nghiệp học hỏi, sử dụng và hưởng lợi từ các công nghệ kỹ thuật số.
Phát triển mô hình hoạt động bền vững và cách tiếp cận có hỗ trợ kinh phí đối với việc thiết lập, duy trì và phát triển nền tảng dữ liệu mở là rất quan trọng. Có nhiều lựa chọn như: huy động các nguồn lực từ các tổ chức khu vực công một cách hiệu quả, dịch vụ được chia sẻ nhằm tuân quy định về dữ liệu mở, tạo doanh thu từ chính nền tảng này thông qua dịch vụ đăng ký và giá trị gia tăng, đồng thời thúc đẩy đầu tư trên cơ sở tiết kiệm hiệu quả trong tương lai tại chính quyền đô thị và tăng trưởng kinh tế trong đô thị được tạo ra bởi nền tảng này.
6.11.3 Các khuyến nghị
Các nhà lãnh đạo đô thị thông minh cần trao quyền cho các bên quan tâm trên toàn đô thị nhằm tạo ra các loại hình dịch vụ và giá trị mới bằng cách công khai dữ liệu của đô thị thông qua các nền tảng mở và bằng cách thúc đẩy các thay đổi nội bộ về văn hóa và các tác nhân bên ngoài tác động đến thị trường có thể tạo ra một thành một thị trường thông tin phong phú của đô thị.
6.11.4 Sự liên kết
Cách tiếp cận đối với việc trao quyền cho cộng đồng được mô tả ở trên là yếu tố quan trọng của sự chuyển đổi rộng lớn hơn nhằm hướng tới mô hình hoạt động của đô thị thông minh được mô tả trong tiêu chuẩn này. Để đạt được thành công, cách tiếp cận này cần liên kết chặt chẽ với hoạt động của quản lý danh tính và quyền riêng tư [B10], và có cách tiếp cận được tích hợp hơn để quy định và mua các dịch vụ được quy định trong quản lý việc mua sắm và nhà cung cấp [B4]. Nội dung chi tiết hơn về các quy trình quản lý tài sản và công nghệ cần thiết để hỗ trợ cách tiếp cận này được nêu trong lập bản đồ và quản lý tài nguyên về công nghệ thông tin và dữ liệu [B13] và kiến trúc công nghệ thông tin mở, định hướng vào dịch vụ trên toàn đô thị [B14].
6.12 Cấu phần [B9] – Thực hiện các dịch vụ tích hợp lấy người dân làm trung tâm
6.12.1 Bối cảnh
Các nguyên tắc thực hiện [A] nêu bật tầm quan trọng của việc tạo ra các dịch vụ dựa trên nhu cầu của khách hàng chứ không phải là cơ cấu tổ chức.
6.12.2 Nhu cầu
Các đô thị thông minh cần xây dựng các cách thức làm việc mới dựa vào cấu trúc theo chức năng theo chiều dọc để triển khai nhiều dịch vụ lấy người dân làm trung tâm hơn.
Việc triển khai dịch vụ trong các đô thị theo lối truyền thống dựa vào các cấu trúc theo chức năng được tích hợp theo chiều dọc và tập trung vào các chức năng cụ thể, chứ không phải nhu cầu của người dùng (xem 4.1). Tiêu chuẩn này hỗ trợ cho việc phát triển các mô hình hoạt động mới để thúc đẩy sự đổi mới và hợp tác dựa trên các cấu trúc theo chức năng theo chiều dọc này.
Trao quyền cho cộng đồng đô thị thông qua dữ liệu của đô thị [B8] là một yếu tố quan trọng. Ngoài ra, như được minh họa trong Hình 5, chính quyền địa phương và các tổ chức cung cấp dịch vụ chính khác trong đô thị có trách nhiệm sử dụng dữ liệu kết hợp của đô thị để tự cải tiến dịch vụ (hoạt động như các nhà bán lẻ tốt nhất về dữ liệu và các dịch vụ lấy người dân làm trung tâm, chứ không chỉ đơn thuần là các nhà bán buôn có khả năng tạo ra sự đổi mới thông qua những biện pháp khác).
Do đó, một chương trình đô thị thông minh cần đến sự chuyển dịch từ triển khai dịch vụ dựa trên cấu trúc theo chức năng sang cách tiếp cận về triển khai dịch vụ đa kênh, tích hợp dịch vụ. Đây là một cách tiếp cận cho phép có một cái nhìn toàn diện về khách hàng và khả năng cung cấp dịch vụ cho người dân và doanh nghiệp ở đâu và khi nào họ cần nhất, bao gồm cả các dịch vụ một cửa và thông qua các trung gian của khu vực tư và tình nguyện.
Trong khi nhiều đô thị đã đạt được sự tiến bộ theo hướng này, ít nhất xét theo khía cạnh cung cấp về mặt vật chất các kênh phân phối dịch vụ (thông qua dịch vụ web một cửa hoặc điện thoại duy nhất), thì đây chưa hẳn là cách tiếp cận hoàn toàn lấy người dân làm trung tâm. Nhiều cơ quan, ban, ngành của đô thị đã quản lý chồng chéo nhau một phần thông tin về người dân và khách hàng doanh nghiệp của mình, tuy nhiên phần lớn lại không ai chịu trách nhiệm chính về việc sở hữu và quản lý thông tin này trên toàn đô thị và tự mình sử dụng thông tin này để thiết kế các dịch vụ tốt hơn.
Tiêu chuẩn này đề xuất cách tiếp cận cho phép kết hợp các dịch vụ từ tất cả các đơn vị của chính quyền địa phương và các nhà cung cấp dịch vụ công sao cho người dân và doanh nghiệp đều tiếp cận được và hài lòng (chưa cần thực hiện việc tái cấu trúc các tổ chức tham gia). Xét về mặt khái niệm, điều này cho thấy vẫn có một mô hình mà các tổ chức cung cấp dịch vụ hiện tại vẫn tiếp tục đóng vai trò là các nhà cung cấp dịch vụ, nhưng đóng vai trò trung gian bởi có hạ tầng hoạt động ảo dựa trên nhu cầu của khách hàng. Mô hình này này đã được triển khai thành công ở cấp độ đô thị, địa phương và quốc gia tại một số nước trên thế giới, đây là cách tiếp cận có chi phí thấp, rủi ro thấp và có tầm ảnh hưởng rộng lớn, bao gồm:
- a) tạo ra nhóm nhượng quyền thương mại mới của khách hàng trong đô thị, như cha mẹ, người đi làm, người khuyết tật, gia đình gặp khó khăn…;
- b) tạo nguồn các nhóm khách hàng này gắn với những chức năng cung cấp dịch vụ hiện có của đô thị mà không làm tăng thêm chi phí;
- c) trao quyền cho các nhóm khách hàng này gắn với mô hình hoạt động được xác định và có chất lượng để:
1) sử dụng nghiên cứu kỹ lưỡng về khách hàng và dữ liệu toàn đô thị nhằm thấu hiểu các nhu cầu của các nhóm khách hàng của mình;
2) cung cấp nội dung và các giao dịch có thể tích hợp, đáng tin cậy và lấy khách hàng làm trung tâm cho các người dân và doanh nghiệp của mình;
3) đóng vai trò của những người đi đầu, người định hướng cho cách tiếp cận lấy khách hàng làm trung tâm và dựa vào thương hiệu đối với việc phát triển và thực hiện các dịch vụ công trên toàn đô thị.
- d) Cung cấp phương tiện an toàn và có chất lượng cho phép các mô hình hoạt động mới và các loại hình quan hệ đối tác công tư ngày càng mở rộng;
- e) Thiết lập khuôn khổ rõ ràng về hiệu quả hoạt động và đo lường những ảnh hưởng nhằm đảm bảo rằng các nhà lãnh đạo dịch vụ chịu sự giám sát và vượt qua những thách thức để đạt được các cách thức làm việc thông minh hơn và chú trọng vào người dùng hơn.
CHÚ THÍCH Cần chú ý Tiêu chuẩn OASIS về “Khung chuyển đổi của chính phủ” [1] cung cấp các thông tin chi tiết hơn và các nghiên cứu điển hình trên toàn cầu.
6.12.3 Các khuyến nghị
Các lãnh đạo của đô thị thông minh cần:
- a) cung cấp cho người dân và doanh nghiệp các dịch vụ công có thể truy cập ở một cổng, bằng nhiều kênh và được tạo lập dựa trên nhu cầu của người dùng chứ không phải dựa trên cấu trúc của đô thị.
- b) thiết lập kiến trúc thông tin và kinh doanh được tích hợp cho phép đô thị xem xét toàn diện các nhóm khách hàng cụ thể của các dịch vụ đô thị này.
- c) triển khai thực hiện theo từng giai đoạn, với chi phí thấp và ít rủi ro bằng cách hình thành nhiều doanh nghiệp nhượng quyền hiệu quả, trên toàn đô thị, nhanh nhạy dựa trên các phân khúc khách hàng cụ thể và nằm trong các cấu trúc cung cấp dịch vụ hiện có của đô thị.
6.12.4 Sự liên kết
Cách tiếp cận về triển khai các dịch vụ tích hợp lấy người dân làm trung tâm là một yếu tố chính của sự chuyển đổi rộng hơn sang mô hình hoạt động của đô thị thông minh. Để đạt được thành công, cần được liên kết chặt chẽ cách tiếp cận này với công việc của sự cam kết hợp tác [B3], quản lý danh tính và quyền riêng tư [B10] cũng như quản lý kênh và kỹ thuật số [B11]. Nội dung chi tiết về các quá trình quản lý công nghệ và tài sản dữ liệu hỗ trợ cho cách tiếp cận này được nêu trong Lập bản đồ và quản lý tài nguyên về công nghệ thông tin và dữ liệu [B13] và kiến trúc CNTT mở, định hướng vào dịch vụ trên toàn đô thị [B14]. Hướng dẫn chi tiết và các thực hành tốt trên thế giới về mô hình nhượng quyền thương mại của khách hàng và về triển khai dịch vụ dựa vào thương hiệu được trình bày trong Tiêu chuẩn OASIS về “Khung chuyển đổi của chính phủ” [1].
6.13 Cấu phần [B10] – Quản lý danh tính và quyền riêng tư
6.13.1 Bối cảnh
Các nguyên tắc thực hiện [A] nêu bật tầm quan trọng của việc đảm bảo rằng tất cả dữ liệu cá nhân được giữ an toàn và thuộc quyền sở hữu và kiểm soát của cá nhân người dân.
6.13.2 Nhu cầu
Đô thị thông minh cần có sự tin cậy. Có thể đạt được các lợi ích đáng kể khi đô thị chia sẻ dữ liệu về việc triển khai các dịch vụ của đô thị. Tuy nhiên, điều quan trọng là khi chuyển sang chia sẻ dữ liệu thì vẫn duy trì được sự tin cậy của người dân do cách tiếp cận đối với việc quản lý dịch vụ của đô thị chú trọng vào bảo mật và quyền riêng tư của dữ liệu cá nhân.
Danh tính là một khái niệm phức tạp và đơn thuần mang tính cá nhân. Một cá nhân có thể có nhiều danh tính, danh tính trùng nhau và danh tính theo từng phần mà mỗi danh tính này được gắn với những quyền và sự cho phép khác nhau, thậm chí địa điểm khác nhau. Những danh tính này thường trùng lặp nhưng trong một số trường hợp, cá nhân có thể giữ các danh tích tách biệt để bảo vệ quyền riêng tư của mình. Tại các thời điểm khác, cá nhân có thể tham gia và ngừng tham gia khi phải liên tục cung cấp cho chính quyền đô thị cùng một thông tin lặp đi lặp lại.
Các đô thị thường rất khó khăn trong việc quản lý sự phức tạp này. Thông thường, danh tính được xác định và quản lý riêng biệt cho các dịch vụ khác nhau của đô thị. Một số công cụ mà chính quyền đô thị áp dụng để đảm bảo quyền truy cập an toàn các dịch vụ công trong thế giới kỹ thuật số, chẳng hạn như mật khẩu, mã PIN và chữ ký số, nhưng thực tế đó lại là những rào cản đối với việc tiếp nhận các dịch vụ kỹ thuật số. Có thể người sử dụng sẽ hoài nghi những nỗ lực sử dụng dữ liệu của đô thị có hiệu quả và đáp ứng nhu cầu cải tiến dịch vụ.
Tiêu chuẩn này đề xuất một cách tiếp cận về quản lý danh tính và quyền riêng tư dựa trên ba yếu tố trụ cột:
- a) Kiến trúc hoạt động liên kết. Thứ nhất, kiến trúc hoạt động về quản lý danh tính dựa trên sự liên kết giữa nhiều tổ chức đáng tin cậy (ví dụ: chính quyền địa phương, các cơ quan chính phủ, ngân hàng, nhà tuyển dụng) và mô hình rõ ràng về thiết lập sự tin cậy giữa các tổ chức này.
- b) Kiến trúc kỹ thuật có khả năng liên thông. Thứ hai, kiến trúc công nghệ để hỗ trợ khả năng liên thông của dữ liệu và các dịch vụ công nghệ thông tin, không phụ thuộc vào việc triển khai kỹ thuật đã được xử lý trước nhưng phù hợp với mô hình kiến trúc định hướng vào dịch vụ (SOA), sử dụng các dịch vụ cổng internet để đóng vai trò của nhà môi giới giữa các dữ liệu khác nhau và các dịch vụ công nghệ thông tin của những người tham gia vào mô hình liên kết tin cậy này.
- c) Mô hình tin cậy lấy người dân làm trung tâm. Thứ ba và có lẽ là quan trọng nhất, mô hình dịch vụ khách hàng về quản lý danh tính đặt các cá nhân dưới sự kiểm soát trực tiếp về dữ liệu của chính họ, có khả năng quản lý mối quan hệ dữ liệu của họ với đô thị (và với các biện pháp kiểm soát rõ ràng để trấn an các cá nhân rằng đây là trường hợp đúng nhất). Cách tiếp cận lấy người dân làm trung tâm này đối với việc quản lý danh tính được minh họa trong Hình 8.
Nguồn: Tiêu chuẩn OASIS về “Khung chuyển đổi của chính phủ” [1]
Hình 8 – Mô hình quản lý danh tính lấy người dân làm trung tâm
6.13.3 Các khuyến nghị
Các lãnh đạo của đô thị thông minh cần sử dụng cách tiếp cận đối với việc quản lý danh tính và quyền riêng tư dựa trên:
- a) một mô hình hoạt động mở và liên kết;
- b) một kiến trúc công nghệ thông tin định hướng vào dịch vụ; và
- c) một mô hình tin cậy lấy người dân làm trung tâm.
6.13.4 Sự liên kết
Hướng dẫn này giúp cho việc triển khai các dịch vụ tích hợp, lấy khách hàng làm trung tâm như một phần của thực hiện các dịch vụ tích hợp, lấy người dân làm trung tâm [B9] cũng như cho phép trao quyền cho cộng đồng đô thị thông qua dữ liệu của đô thị [B8]. Thông tin chi tiết hơn về các kiến trúc công nghệ thông tin định hướng vào dịch vụ để hỗ trợ cho cách tiếp cận đối với việc quản lý danh tính và quyền riêng tư được nêu tại kiến trúc công nghệ thông tin mở, định hướng vào dịch vụ trên toàn đô thị [B14]. Các hành động chính để triển khai chiến lược quản lý danh tính và quyền riêng tư cần được xây dựng trong lộ trình của đô thị thông minh [B7].
6.14 Cấu phần [B11] – Chiến lược áp dụng kỹ thuật số và quản lý kênh
6.14.1 Bối cảnh
Một đô thị có thể đạt được những lợi ích từ việc trao quyền cho cộng đồng đô thị thông qua dữ liệu của đô thị [B8] và thực hiện các dịch vụ tích hợp, lấy người dân làm trung tâm [B9] và những lợi ích này được gia tăng nhiều hơn nếu các người dân và doanh nghiệp tham gia dịch vụ của đô thị thông qua các kênh kỹ thuật số.
6.14.2 Nhu cầu
Việc quản lý kênh thường là điểm yếu trong thực hiện dịch vụ của đô thị, với sự sao chép phổ biến, kém hiệu quả và thiếu sự tập trung vào người sử dụng.
Kinh nghiệm cho thấy rằng những cản trở thường gặp phải trong việc quản lý kênh đối với các dịch vụ công ở các đô thị bao gồm:
- a) sự thiếu hiểu biết về các rào cản đối với việc tiếp nhận các dịch vụ kỹ thuật số;
- b) quản lý các kênh kỹ thuật số mới với các kiến trúc hoạt động và kỹ thuật tách biệt với các kênh truyền thống trực diện hoặc dựa trên giấy tờ như trước đây;
- c) không có quan điểm chung về dịch vụ khách hàng trên nhiều kênh;
- d) các thực hành tác nghiệp, chi phí và tiêu chuẩn dịch vụ cho nhiều kênh ở dưới mức tiêu chuẩn dành cho các kênh đó trong khu vực tư nhân;
- e) sự phụ thuộc vào các kênh thuộc sở hữu của chính phủ, cùng với sự hiểu biết không đầy đủ về cách thức hợp tác với các tổ chức ở khu vực tư nhân và tình nguyện có các kênh tin cậy hiện có cho khách hàng chính phủ;
- f) sự trùng lặp gây tốn kém về các tài sản dữ liệu và công nghệ thông tin trên các kênh;
- g) sự cạnh tranh không hiệu quả và tốn kém giữa các kênh thực hiện dịch vụ;
- h) cách tiếp cận gia tăng, không chuyển đổi.
Các chương trình đô thị thông minh có thể tránh được những chướng ngại này bằng cách tạo ra cách tiếp cận quản lý kênh tập trung vào nhu cầu và hành vi của người dân, doanh nghiệp trong đô thị. Điều này có nghĩa là việc cung cấp dịch vụ cần lấy người dân làm trung tâm, với các dịch vụ có thể truy cập ở đâu và khi nào mà người dân và doanh nghiệp muốn sử dụng chúng, bao gồm cả dịch vụ một cửa và khâu trung gian của các khu vực tư nhân và tình nguyện. Các dịch vụ cần được cung cấp qua nhiều kênh, nhưng có chiến lược rõ ràng để chuyển người sử dụng dịch vụ đến các kênh kỹ thuật số có chi phí thấp hơn (bao gồm cả chiến lược đưa các dịch vụ kỹ thuật số tiếp cận phân khúc khách hàng hiện không thể hoặc không muốn sử dụng chúng).
6.14.3 Khuyến nghị
Các nhà lãnh đạo của đô thị thông minh cần thiết lập một chiến lược áp dụng kỹ thuật số và quản lý kênh, bao gồm:
- a) kiểm toán rõ ràng đối với các kênh hiện có đang được sử dụng để cung cấp các dịch vụ đô thị và đối với các chi phí và mức dịch vụ gắn kết với những kênh này;
- b) tầm nhìn và lộ trình cho việc phát triển phương pháp tiếp cận về quản lý kênh mới mà:
1) tập trung vào những nhu cầu và hành vi của người dân và doanh nghiệp;
2) xác định các cơ hội cho những dịch vụ hiện tại được thiết kế và xây dựng bằng việc đưa vào áp dụng trực tiếp sự kết nối thông minh mới giữa tài sản của đô thị và các thiết bị kỹ thuật số;
3) khuyến khích các bên có liên quan tiếp cận và sử dụng các dịch vụ kỹ thuật số mà hiện tại họ chưa dùng vì một lý do nào đó, bằng cách:
- i) xác định những lợi ích trong tương lai để có kế hoạch hỗ trợ kinh phí cho việc áp dụng kỹ thuật số ngay từ bây giờ;
- ii) đảm bảo việc dự phòng kỹ thuật số đầy đủ khi xảy ra khả năng có loại trừ kỹ thuật số;
iii) thực hiện cách tiếp cận chủ động loại trừ kỹ thuật số này thông qua việc đào tạo, tiếp cận và giáo dục, đồng thời xác định các kênh để cho phép quan điểm và tiếng nói của các bên có liên quan được lắng nghe và làm căn cứ cho việc đưa ra quyết định.
6.14.4 Sự liên kết
Hướng dẫn này giúp cho việc thực hiện các dịch vụ tích hợp, lấy người dân làm trung tâm [B9] và tạo thuận lợi cho việc trao quyền cho cộng đồng đô thị thông qua dữ liệu của đô thị [B8]. Cần quản lý khả năng liên thông về kỹ thuật và ngữ nghĩa nhằm hỗ trợ cho việc tích hợp kênh được nêu trong lập bản đồ nhu cầu về khả năng liên thông của đô thị [B5] và kiến trúc công nghệ thông tin mở, định hướng vào dịch vụ trên toàn đô thị [B14]. Thực hiện các hành động chính như một phần của chiến lược áp dụng kỹ thuật số và quản lý kênh cần được xây dựng trong lộ trình của đô thị thông minh [B7].
6.15 Quản lý tài nguyên kỹ thuật số và hạ tầng kỹ thuật
Cấu phần này cho thấy những thay đổi trong cách thức quản lý các tài nguyên kỹ thuật, công nghệ và thông tin trong đô thị có thể giúp tăng tốc, giảm rủi ro và giảm chi phí các chương trình đô thị thông minh và đặc biệt để hài hòa một cách chặt chẽ hơn việc thực hiện dịch vụ với các nguyên tắc thực hiện [A].
Có ba yếu tố chính:
– [B12] Quản lý các phát triển và hạ tầng của đô thị thông minh;
– [B13] Lập bản đồ và quản lý tài nguyên về công nghệ thông tin và dữ liệu;
– [B14] Kiến trúc công nghệ thông tin mở, định hướng vào dịch vụ trên toàn đô thị.
6.16 Cấu phần [B12] – Quản lý các phát triển và hạ tầng của đô thị thông minh
6.16.1 Bối cảnh
Cấu phần A của tiêu chuẩn này khuyến nghị rằng tất cả các khía cạnh của việc triển khai đô thị thông minh cần được hướng dẫn bởi bốn nguyên tắc thực hiện [A]: có tầm nhìn, lấy người dân làm trung tâm, kỹ thuật số, mở và hợp tác. Cấu phần này chú trọng vào việc đảm bảo rằng các nguyên tắc này được tích hợp vào việc lập kế hoạch, xây dựng và quản lý môi trường và hạ tầng kỹ thuật đã được xây dựng của đô thị.
6.16.2 Nhu cầu
Các dự án phát triển và hạ tầng của đô thị cần phải tích hợp các nguyên tắc thông minh từ các giai đoạn hoạch định ban đầu và được quản lý theo cách thức tổng hợp và có sự phụ thuộc lẫn nhau của những nguyên tắc này.
Các cách tiếp cận của đô thị thông minh dựa vào và chuyển đổi yếu tố then chốt của việc quy hoạch và thiết kế đô thị hiện đại, đây là quan niệm mang tính bản lề.
Đã từ lâu quy hoạch và thiết kế đô thị không chỉ đơn thuần tập trung vào các hạ tầng cứng của các tòa nhà, đường xá… mà còn cần chú ý nhiều đến các hệ thống hoạt động mang tính xã hội. Nếu các tòa nhà và hạ tầng không tính đến việc thiết kế tốt như thế nào thì không thể tạo ra một địa điểm hấp dẫn, sôi động và bền vững: hoạt động của các nhà cung cấp dịch vụ, doanh nghiệp và các tổ chức cộng đồng cũng rất quan trọng. Lưu ý rằng thiết kế kỹ thuật của khu vực lân cận cần tạo thuận lợi cho sự tương tác tích cực giữa mọi người và giúp họ dễ dàng sử dụng.
Do vậy, các đô thị thông minh cần phải:
– Có tầm nhìn: Ngay từ khi hình thành toàn bộ tầm nhìn của đô thị [B1] rõ ràng, thuyết phục và do tất cả các bên quan tâm tham gia thiết lập.
– Lấy người dân làm trung tâm: Khi thiết kế có sự hợp tác của người dân, doanh nghiệp, nhà cung cấp dịch vụ và các tổ chức cộng đồng để tầm nhìn của đô thị thực sự vì những người sống trong khu vực và giúp họ sử dụng dịch vụ một cách tốt nhất
– Kỹ thuật số: Nắm bắt các cơ hội đang được mở ra bởi các công nghệ kỹ thuật số để tạo ra các địa điểm có tầm nhìn, lấy người dân làm trung âm theo những cách thức đổi mới, sáng tạo, bao gồm:
– sử dụng việc lập mô hình kỹ thuật số của đô thị để kiểm tra và so sánh các lựa chọn khác nhau, đánh giá khả năng tác động của chúng đối với đô thị;
– sử dụng các hình ảnh kỹ thuật số để thu hút các bên quan tâm tham gia ý kiến có ý nghĩa hơn và cùng tham gia sáng tạo các không gian của đô thị:
– cho phép lượng dữ liệu lớn hơn, bao gồm dữ liệu thời gian thực, được thu thập, tích hợp và sử dụng để cải thiện việc quản lý khu vực lân cận và thực hiện dịch vụ;
– sử dụng truyền thông kỹ thuật số và truyền thông xã hội nhằm giúp cộng đồng an toàn hơn và gắn kết hơn, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho những thay đổi hành vi để làm cho cộng đồng trở lên bền vững hơn.
– Mở và hợp tác: Phát triển các loại loại hình mới của các mô hình hoạt động và các mối quan hệ đối tác công – tư cho phép chia sẻ và phát triển chung các tài sản vượt qua các ranh giới về tổ chức và lĩnh vực.
Việc đưa cách tiếp cận này vào thực tiễn đòi hỏi các nhà lãnh đạo của đô thị thông minh phải thiết lập các hệ thống để đảm bảo rằng tất cả các dự án về phát triển và hạ tầng trong đô thị đều đề cập đến ba vấn đề sau:
- a) Đưa các nguyên tắc thực hiện thông minh vào việc lập kế hoạch dự án ngay từ đầu
Nếu đặt nền móng cho một đô thị thông minh trong dự án phát triển hoặc hạ tầng ở giai đoạn lập kế hoạch và thực hiện ban đầu thì sẽ dễ dàng hơn và chi phí rẻ hơn so với việc sau này mới tìm cách tính đến phương án phù hợp này. Ví dụ:
– việc đào bới và trang bị, lắp đặt thêm hệ thống mạng viễn thông có thể chiếm đến 80 % chi phí lắp đặt. Do vậy sẽ hiệu quả về chi phí nếu đảm bảo việc tính toán thích hợp này được đưa vào những phát triển mới ngay ở giai đoạn xây dựng;
– các mạng cảm biến được lắp đặt trong quá trình triển khai các dự án phát triển hoặc hạ tầng thì chi phí lắp đặt có thể rẻ hơn nhiều;
– nếu thiết lập sớm các giao thức chung cho chia sẻ dữ liệu và khả năng liên thông giữa các đối tác phát triển và nhà cung cấp dịch vụ thì sẽ dễ dàng hơn cho việc quản lý và mang lại lợi ích lớn hơn.
- b) Thực hiện cách tiếp cận toàn diện trên tất cả các loại hình hạ tầng của đô thị
Việc kết hợp sức mạnh tổng hợp giữa các hạ tầng của các đô thị hỗ trợ cho việc cung cấp năng lượng, nước, chất thải, viễn thông và dịch vụ vận tải. Tất cả các hạ tầng này cần phải liên kết mọi phần của đô thị và do đó chúng có xu hướng tiếp cận gần lại với nhau. Ngoài ra còn có nhiều điểm tương đồng giữa các cách thức các hạ tầng được hoạch định, cung cấp tài chính, phát triển, vận hành và duy trì. Do sự tương đồng của các hạ tầng khác nhau này nên việc hỗ trợ và hợp tác sẽ đem lại nhiều lợi ích trong việc quản lý hạ tầng. Trong nhiều trường hợp, một số hoặc tất cả các hạ tầng nằm ngoài sự kiểm soát và quản lý trực tiếp của chính quyền đô thị. Do đó, vai trò chính đối với việc lãnh đạo và điều hành [B2] là xây dựng mối liên kết với các chủ sở hữu và người quản lý của tất cả các hạ tầng này và huy động họ tham gia cùng nhau trong việc phát triển cách tiếp cận thống nhất và toàn diện. Ví dụ, các tài liệu thực hành tốt được xây dựng cho nội dung này bao gồm:
– thỏa thuận về một phương pháp luận đánh giá chung, có tính đến sự tác động của các hạ tầng và các dịch vụ mà các tài liệu này hỗ trợ cho tất cả các bên liên quan khác nhau cũng như cho vấn đề môi trường;
– phát triển các giao thức chia sẻ dữ liệu chung để cho phép chia sẻ dữ liệu liên quan dễ dàng và an toàn nhằm quản lý tổng thể tốt hơn;
– xem xét, đánh giá các cơ hội cho sự phối hợp giữa các hạ tầng khác nhau, chẳng hạn như:
– phát triển các giao thức lắp đặt và bảo trì mang tính hợp tác;
– sử dụng các mạng cảm biến chung để giám sát tính toàn vẹn và hiệu quả hoạt động của các hạ tầng khác nhau;
– xem xét, đánh giá các cơ hội đối với việc quản lý tổng thể mang tính hợp tác. Ví dụ:
– làm thế nào để quản lý được sự gia tăng sử dụng xe điện bằng cách cung cấp điện cũng như pin cho xe để lưu trữ một số năng lượng dư thừa có thể được lấy từ các nguồn năng lượng tái tạo;
– cách thức sử dụng lò đốt chất thải tạo ra năng lượng có thể quản lý theo cách: không chỉ xử lý chất thải cần xử lý mà còn yêu cầu của các nhà cung cấp năng lượng đáp ứng các yêu cầu của người dùng;
– phát triển các chiến lược giảm thiểu rủi ro nhằm đối phó với sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng tăng của các hạ tầng đô thị.
- c) Xây dựng các mối quan hệ đối tác và mô hình hoạt động mới
Các dự án phát triển và hạ tầng mới thường đưa ra những cơ hội với chi phí hợp lý và hiệu quả để thử nghiệm và kiểm nghiệm các sản phẩm, dịch vụ của đô thị thông minh và các mô hình hoạt động cần thiết để hỗ trợ kinh phí và vận hành chúng trước khi phổ biến ra toàn đô thị.
Tuy nhiên, các quá trình mua sắm hiện tại do chính quyền đô thị sử dụng thường có thể quá cứng nhắc để cho phép đưa ra các giải pháp cho đô thị thông minh. Khi chính quyền đô thị mua sắm cho hạ tầng, chẳng hạn như để cải tiến lĩnh vực công, chiếu sáng đường phố và các chương trình cải tạo lớn, các quá trình mua sắm này thường chỉ được quản lý bởi một bộ phận của chính quyền đô thị và không có nhiều thời gian thực hiện để đạt được các mục tiêu cụ thể với chi phí ít nhất có thể. Điều này có thể làm cho đô thị thông minh bỏ lỡ cơ hội mang lại những lợi ích rộng hơn với chi phí thấp hoặc không phụ trội. Do đó, cần đảm bảo rằng tất cả việc mua sắm cho phát triển và hạ tầng đều tuân thủ các thực hành mua sắm thông minh được mô tả trong quản lý việc mua sắm và nhà cung cấp [B4].
6.16.3 Khuyến nghị
Các lãnh đạo của đô thị thông minh cần cộng tác việc với tất cả các bên quan tâm để đảm bảo rằng tất cả các dự án phát triển và hạ tầng được triển khai trên toàn đô thị.
- a) tạo lập các nguyên tắc thực hiện thông minh trong việc lập kế hoạch cho dự án ngay từ đầu;
- b) thực hiện cách tiếp cận toàn diện cho tất cả các loại hình hạ tầng của đô thị;
- c) tạo lập các quan hệ đối tác và mô hình hoạt động mới.
6.16.4 Sự liên kết
Việc thực hiện có hiệu quả các khuyến nghị này đòi hỏi sự lãnh đạo và điều hành [B2] mạnh mẽ và toàn diện và sự hợp tác của các bên liên quan [B3] sâu rộng. Tất cả các hoạt động mua sắm được triển khai trong khi thực hiện những phát triển và hạ tầng của đô thị thông minh cần tuân thủ các thực hành tốt nhất nêu trong sự hợp tác của các bên liên quan [B3]. Dữ liệu về những phát triển và hạ tầng của đô thị thông minh có tính mở, có khả năng liên thông và có khả năng khai thác có thể được hỗ trợ thuận lợi hơn bằng việc thực hiện theo các thực hành tốt nhất nêu trong lập bản đồ và quản lý tài nguyên về công nghệ thông tin và dữ liệu [B13].
Một dự án phát triển hoặc hạ tầng của đô thị thông minh có thể đúng là một chương trình thay đổi phức hợp sự. Do vậy, các nhà lãnh đạo dự án cần;
– Xây dựng lộ trình ở cấp độ dự án áp dụng các thực hành tốt nhất nêu trong lộ trình của đô thị thông minh [B7] tổng thể;
– Áp dụng các thực hành quản lý rủi ro nêu trong các rủi ro chính [D].
Hướng dẫn chi tiết có liên quan có trong TCVN 37151 và TCVN 37152. Các hướng dẫn về trao đổi dữ liệu giữa hạ tầng của cộng đồng thông minh đang trong quá trình xây dựng.
6.17 Cấu phần [B13] – Lập bản đồ và quản lý tài nguyên về công nghệ thông tin và dữ liệu
6.17.1 Bối cảnh
Các tài nguyên công nghệ, kết hợp cùng với dữ liệu kỹ thuật, đơn giản được xem như một phương tiện đầu cuối cụ thể và do đó được mua sắm và quản lý bởi một tổ chức duy nhất với một mục đích duy nhất. Mô hình hoạt động của đô thị thông minh đòi hỏi các thay đổi quan trọng đối với cách tiếp cận dựa trên cấu trúc theo chức năng này về quản lý các tài nguyên công nghệ và kỹ thuật số.
6.17.2 Nhu cầu
Các đô thị cần thiết lập quá trình điều hành để quản lý các tài sản công nghệ và kỹ thuật số như những tài nguyên trên toàn đô thị.
Các tổ chức lớn của khu vực tư nhân đang chuyển hướng sang một mô hình kiến trúc định hướng vào dịch vụ, mở rộng phạm vi hoạt động, nơi các toàn nhà sử dụng các tiêu chuẩn mở cho phép sử dụng công nghệ linh hoạt, thích ứng và có thể mở rộng nhằm phản ứng nhanh chóng với các nhu cầu và mong muốn của khách hàng. Các doanh nghiệp ngày càng đạt được lợi ích có hiệu quả cao hơn bằng cách quản lý các tòa nhà này như một dịch vụ, được cung cấp không chỉ từ kiến trúc công nghệ thông tin và truyền thông của chính doanh nghiệp mà còn từ đám mây (bộ tài nguyên điện toán công và tư có thể mở rộng và mang tính động hiện đang được cung cấp dưới dạng dịch vụ qua internet).
Các đô thị ngày càng sử dụng cách tiếp cận này đối với việc triển khai công nghệ, cả trong các cơ quan khác nhau của chính quyền địa phương cũng như trong hợp tác với các tổ chức cung cấp dịch vụ chính khác trong đô thị.
Điểm khởi đầu chính là vạch ra các tài sản chính yếu và thiết lập các quá trình điều hành cho phép quản lý các tài sản này dưới dạng tài sản tách biệt với mục đích sử dụng ban đầu. Để được tái sử dụng một cách hiệu quả, các tài nguyên cần được:
– xác định và quản lý dưới dạng các tài sản riêng biệt, tài sản có giá trị do các chủ sở hữu được chỉ định rõ ràng;
– nhận biết trên các tên miền sở hữu;
– liên kết với các chính sách và quá trình rõ ràng về tái sử dụng, đặc biệt là trên các tên miền sở hữu.
Nhu cầu này đối với các đô thị nắm bắt được việc quản lý hiệu quả tài sản số của mình đang được tăng lên một cách đáng kể nhờ vào sự phát triển của “Internet vạn vật”. Các tòa nhà, đường xá, địa điểm, vô số các thiết bị đang trở nên thông minh và được kết nối mạng, nhân rộng các nguồn dữ liệu đô thị tiềm năng (cũng có tiềm năng về sự không hiệu quả, trùng lặp và thiếu sự tập trung vào người dân nếu như các dữ liệu này không được quản lý có hiệu quả).
6.17.3 Khuyến nghị
Các lãnh đạo của đô thị thông minh cần xác định rõ các tài nguyên thông tin và hệ thống công nghệ thông tin và truyền thông chính trên toàn đô thị, ưu tiên những tài nguyên có tiềm năng tái sử dụng lớn nhất và thiết lập các quá trình điều hành và chính sách sử dụng nhằm tối đa hóa việc tái sử dụng tài sản của các đối tác của đô thị.
6.17.4 Sự liên kết
Việc chuyển hướng sang quản lý có hiệu quả tài sản công nghệ và kỹ thuật số trên toàn đô thị sẽ là một quá trình phát triển thường xuyên chứ không phải là sự thay đổi nhất thời. Quá trình này cần được thiết lập như một yếu tố cốt lõi của lộ trình của đô thị thông minh [B7]. Trong quá trình này, cần ưu tiên các tài sản mà các bên liên quan xác định là tối quan trọng đối với:
- a) việc mở tài sản dữ liệu có mức độ ưu tiên cao của đô thị với mục đích sử dụng rộng rãi hơn là một phần của trao quyền cho cộng đồng đô thị thông qua dữ liệu của đô thị [B8];
- b) đưa ra một cái nhìn toàn diện của khách hàng như một phần của cách tiếp cận thực hiện dịch vụ đa kênh theo yêu cầu của việc thực hiện các dịch vụ tích hợp, lấy người dân làm trung tâm [B9] và dựa theo mô hình tin cậy lấy người dân làm trung tâm trong quản lý danh tính và quyền riêng tư [B10];
- c) kiến trúc công nghệ thông tin mở, định hướng vào dịch vụ trên toàn đô thị [B14].
Thông tin chi tiết hơn về tầm nhìn kiến trúc dài hạn mà quá trình quản lý tài nguyên này cần hướng đến mô hình đô thị như mô tả trong kiến trúc công nghệ thông tin mở, định hướng vào dịch vụ trên toàn đô thị [B14].
6.18 Cấu phần [B14] – Kiến trúc công nghệ thông tin mở, định hướng vào dịch vụ trên toàn đô thị
6.18.1 Bối cảnh
Để lập bản đồ và quản lý tài nguyên về công nghệ thông tin và dữ liệu [B13] có hiệu quả, phù hợp với tài sản công nghệ và kỹ thuật số của đô thị cùng với cách tiếp cận được tích hợp, không dựa trên cấu trúc theo chức năng mà mô hình hoạt động của đô thị thông minh đòi hỏi, thì điều quan trọng là phải có tầm nhìn và kiến trúc ở cấp độ cao đối với việc sử dụng công nghệ tương lai trên toàn đô thị.
6.18.2 Nhu cầu
Công nghệ thay đổi nhanh hơn nhiều so với các thay đổi về tổ chức, nhưng các đô thị thường tự trói buộc mình vào những giải pháp công nghệ cụ thể.
Các đô thị thông minh cần tự bảo vệ mình trước nhược điểm của sự phát triển công nghệ nhanh chóng bằng cách phát triển nền tảng công nghệ thông tin mang tính chiến lược nhằm đảm bảo sự phát triển trong tương lai cũng như thị trường phát triển, nhu cầu của người dân thay đổi và những ưu tiên của đô thị tiến triển.
Một nền tảng như vậy không thể bị ràng phụ thuộc vào các công nghệ hoặc giải pháp cụ thể nào mà chúng có thể ngăn cản hoặc hạn chế sự phát triển. Do đó, đô thị cần thiết lập kế hoạch cho nền tảng công nghệ thông tin mở, toàn đô thị, định hướng vào dịch vụ, có khả năng liên thông. Kế hoạch này thông thường triển khai một cách chắc chắn và không phải do một nhà cung cấp công nghệ thông tin duy nhất thực hiện, nhưng phải:
– đưa ra một kiến trúc được các đối tác và các nhà cung cấp của đô thị cùng thống nhất;
– thiết lập một môi trường cạnh tranh nhiều mức độ ở nền tảng, các dịch vụ và các lớp ứng dụng.
Như được nêu trong Phụ lục A về các nguyên tắc thực hiện của đô thị thông minh (xem A.6), các nguyên tắc chính làm cơ sở cho một nền tảng như vậy cần bao gồm:
- a) Công khai dữ liệu của đô thị để thúc đẩy sự đổi mới, sáng tạo và tạo ra giá trị mới:
1) tất cả các dữ liệu cá nhân được lưu giữ an toàn; thuộc quyền sở hữu và kiểm soát của mỗi người dân;
2) tất cả dữ liệu công không liên quan đến nhận dạng cá nhân đều được công khai cho việc tái sử dụng và đổi mới, sáng tạo của các bên thứ ba;
3) công khai dữ liệu được thiết kế cho mọi việc mua sắm của đô thị:
4) cam kết của các đối tác thuộc khu vực tư nhân và tình nguyện về việc công khai dữ liệu không nhạy cảm về mặt thương mại hoặc cá nhân;
5) các tiêu chuẩn, siêu dữ liệu, công cụ, sự khuyến khích và mô hình hoạt động để tạo thuận lợi cho một thị trường phát triển mạnh mẽ có sử dụng dữ liệu của đô thị bởi tất cả các bên quan tâm.
- b) Chia sẻ và tái sử dụng các tài sản và dịch vụ của đô thị:
1) chia sẻ rộng rãi trong đô thị các tập dữ liệu chung về người dân và doanh nghiệp, các ứng dụng và giao diện ứng dụng phổ biến, các quá trình thực hiện chung và hạ tầng công nghệ thông tin cốt lõi;
2) sử dụng các nguyên tắc kiến trúc hướng vào dịch vụ (SOA) để liên kết công nghệ và các dịch vụ và giảm sự trùng lặp về hạ tầng;
3) khả năng liên thông được thực hiện bởi các tiêu chuẩn mở.
Các tính năng chính của một nền tảng như vậy có thể bao gồm:
- c) thiết kế theo mô đun, bao gồm việc triển khai thực hiện các dịch vụ gián đoạn mà có thể thực hiện công việc thay cho các bên khác và được làm rõ bằng việc mô tả dịch vụ và bằng hợp đồng rõ ràng để bất kỳ khi nào cũng có thể tái sử dụng bởi bên khác;
- d) quyền sở hữu và điều hành rõ ràng đối với tất cả các yếu tố của kế hoạch;
- e) các tiêu chuẩn đã công bố cho phép trao đổi thông tin an toàn giữa các mô-đun (tất cả đều là mô-đun mở, có thể kết xuất và dựa trên, bất cứ khi nào có thể, theo các tiêu chuẩn quốc gia, nước ngoài và quốc tế) và đề cập đến:
1) các dịch vụ;
2) các kết quả dữ liệu;
3) các quy tắc;
4) các chỉ số hiệu quả hoạt động chính (KPI);
5) khả năng liên thông.
6.18.3 Khuyến nghị
Các nhà lãnh đạo của đô thị thông minh cần làm việc với các bên quan tâm (bao gồm các nhà cung cấp công nghệ thông tin, các doanh nghiệp vừa và nhỏ và các đối tác về học thuật) để thiết lập và duy trì kiến trúc công nghệ thông tin mở, định hướng vào dịch vụ, trên toàn đô thị và để xây dựng kế hoạch phát triển theo từng giai đoạn theo kiến trúc đó.
6.18.4 Sự liên kết
Việc dịch chuyển từ tập hợp các hệ thống công nghệ thông tin về quyền riêng tư và các thỏa thuận hợp đồng hiện có sang nền tảng tích hợp hơn, dựa trên kiến trúc hướng vào dịch vụ (SOA) đối với đô thị sẽ là một quá trình thay đổi trong nhiều năm. Quá trình này cần được tạo lập như một yếu tố cốt lõi của lộ trình của đô thị thông minh [B7] và đặc biệt tác động đến việc quản lý việc mua sắm và nhà cung cấp [B4] nhằm đảm bảo rằng các mua sắm mới thiết lập những yêu cầu và mối quan hệ với nhà cung cấp qua đó tạo lập kế hoạch cho nền tảng này. Các dịch vụ và dữ liệu của đô thị được quản lý trên nền tảng này và các tiêu chuẩn hỗ trợ cần được công khai cho các bên quan tâm của đô thị nhằm tái sử dụng như mô tả trong trao quyền cho cộng đồng đô thị thông qua dữ liệu của đô thị [B8]. Quá trình này cũng cần đến việc điều hành mang tính chủ động như được mô tả trong Lập bản đồ và quản lý tài nguyên về công nghệ thông tin và dữ liệu [B13].
CHÚ THÍCH Hướng dẫn chi tiết về kiến trúc hướng vào dịch vụ được đưa ra trong ISO/IEC 18384-2.
7 Cấu phần C: Khung cho việc hiện thực hóa lợi ích
7.1 Bối cảnh
Chương trình đô thị thông minh sẽ không có giá trị nếu không thể cung cấp những gì đã cam kết. Do đó, việc hiện thực hóa lợi ích là trách nhiệm cốt lõi đối với sự lãnh đạo và điều hành [B2] của một chương trình đô thị thông minh.
7.2 Nhu cầu
Tất cả các lợi ích dự kiến ban đầu cần được thực hiện trong thực tiễn. Điều này sẽ không xảy ra khi không có sự quản lý các lợi ích này một cách chủ động.
Trước đây, nhiều đô thị thường thất bại trong việc quản lý một cách chủ động các lợi ích sau khi từng dự án hay một chương trình được hoàn thành, đặc biệt khi có quá nhiều bên quan tâm tham gia. Các chương trình công nghệ thông tin và truyền thông nói riêng thường được xem là hoàn thành sau khi bắt đầu triển khai về mặt kỹ thuật. Tuy nhiên, để đạt được các lợi ích một cách trọn vẹn (ví dụ như tiết kiệm hiệu quả, cải thiện dịch vụ khách hàng), việc quản lý liên tục là tối cần thiết, thường kéo theo những thay đổi quan trọng về văn hóa và tổ chức.
Các chương trình đô thị thông minh đối mặt với thử thách này trên quy mô lớn, vì vậy trong suốt chương trình cần:
– đảm bảo đường hướng rõ ràng giữa mọi khoản đầu tư và hoạt động trong chương trình, các bên trung gian đưa ra các sản phẩm này và các kết quả về xã hội, kinh tế và bền vững cuối cùng được đô thị đặt ra mục tiêu cụ thể;
– thiết lập các thỏa thuận rõ ràng về điều hành và trách nhiệm giải trình để đảm bảo việc thực hiện thành công các kết quả về bền vững này chứ không chỉ là các kết quả từ chương trình đô thị thông minh.
Các lãnh đạo của đô thị cần sử dụng các chỉ số hiệu quả hoạt động chính. Tiêu chuẩn này không xác định chi tiết những lợi ích và tác động nào mà chương trình đô thị thông minh cần chú trọng đến bởi vì điều này sẽ có sự khác biệt theo từng đô thị, nhưng tính phổ quát của việc đo lường đảm bảo tính toàn vẹn và khả năng so sánh của các các đô thị. Các chỉ số chính về hiệu quả hoạt động của các đô thị thông minh được nêu trong TCVN 37120, liệt kê 100 chỉ số hiệu quả hoạt động chính (KPI) cho các vấn đề chính của các đô thị bền vững được mô tả trong TCVN 37101.
Cho dù lựa chọn các lợi ích và tác động có mục tiêu nào (sẽ liên kết chặt chẽ với tầm nhìn của đô thị [B1] cụ thể cho mọi đô thị) thì tiêu chuẩn này khuyến cáo rằng các đô thị cần chấp nhận cách tiếp cận thực hành tốt nhất và dựa trên kết quả để thực hiện các lợi ích, bao gồm các yếu tố minh họa trong Hình 9:
- a) Lập bản đồ lợi ích: Thiết lập tất cả các kết quả dự kiến từ chương trình đô thị thông minh này với đường hướng rõ ràng. Thể hiện cách mà các đầu ra tức thời của các hoạt động và các khoản đầu tư cụ thể trong cả chương trình để thực hiện những kết quả đó.
- b) Theo dõi lợi ích: Thiết lập đường cơ sở về hiệu quả hoạt động hiện thời của đô thị so với đầu ra mục tiêu và các kết quả đạt được, xác định các tiêu chí thành công cho hiệu quả hoạt động trong tương lai và theo dõi sự tiến bộ so với những đường hướng thực hiện đã hoạch định nhằm đạt được các tiêu chí thành công này.
- c) Hiện thực hóa lợi ích: Việc sắp xếp hoạt động điều hành được thiết lập đưa ra để đảm bảo xác định rõ trách nhiệm thực hiện và giám sát liên tục về mọi kết quả dự kiến.
Hình 9 – Khung cho việc hiện thực hóa lợi ích của TCVN ISO 37106
7.3 Khuyến nghị
Các lãnh đạo của đô thị thông minh cần thiết lập một khung cho việc hiện thực hóa lợi ích để đảm bảo đường hướng rõ ràng giữa các hành động và tầm nhìn, đồng thời những lợi ích dự kiến của chương trình đô thị thông minh được thực hiện trong thực tiễn. Khung này cần được tạo lập dựa trên ba trụ cột sau:
- a) lập bản đồ lợi ích;
- b) theo dõi lợi ích; và
- c) hiện thực hóa lợi ích.
7.4 Sự liên kết
Khi xây dựng các chỉ số hiệu quả hoạt động chính (KPI) để theo dõi các kết quả của đô thị được ưu tiên trong Khung cho việc hiện thực hóa lợi ích, các đô thị chú trọng vào các chỉ số cốt lõi chung về đô thị thông minh được liệt kê trong TCVN 37120 và sự mô tả về các chỉ số này trong ISO 37122. Việc xây dựng khung cho việc hiện thực hóa lợi ích là một hoạt động không thể thiếu trong giai đoạn lập kế hoạch ban đầu của lộ trình của đô thị thông minh [B7]. Trong các giai đoạn thực hiện lộ trình này, các đô thị cần đảm bảo đi đúng hướng để thực hiện các lợi ích đã hoạch định của mình thông qua các cuộc kiểm tra thường xuyên chương trình đối với các rủi ro chính [D].
8 Cấu phần D – Các rủi ro chính
8.1 Bối cảnh
Các chương trình đô thị thông minh đối mặt với những rủi ro đáng kể đối với việc thực hiện thành công chương trình này.
8.2 Nhu cầu
Các đô thị cần phải xác định những rủi ro chính đối với chương trình đô thị thông minh và theo dõi sự tiến bộ trong việc quản lý các rủi ro này.
Trong việc thực hiện lộ trình của đô thị thông minh [B7], các đô thị phải đảm bảo quản lý hiệu quả các rủi ro chiến lược chính. Thông thường, những rủi ro này không liên quan đến công nghệ thông minh (hiện ngày càng trở nên phát triển và thông dụng) mà thay vào đó là những thay đổi về hoạt động và văn hóa. Những thay đổi như vậy không thể thiếu đối với các cách tiếp cận toàn đô thị về quản lý chiến, quản lý dịch vụ và quản lý công nghệ được mô tả trong Hợp phần B (Điều 6) của tiêu chuẩn này.
Tuy nhiên, hiện nay có sự gia tăng đáng kể các cơ quan tập trung nghiên cứu lý do một số chương trình chuyển đổi được hỗ trợ bởi công nghệ thông tin và truyền thông đạt được thành công và lý do một số khác lại thất bại. Do đó, tiêu chuẩn này đề cập đến 9 rủi ro chính phản ánh và đáp ứng những phát hiện của các nghiên cứu này, được đánh giá xác nhận bởi các bên liên quan. Chín rủi ro chính này được tóm tắt trong Bảng 5 và được mô tả chi tiết hơn trong Phụ lục B.
Bảng 5 – Các khía cạnh rủi ro chính đối với những chương trình đô thị thông minh
Rõ ràng về mặt chiến lược
– Tầm nhìn rõ ràng – Tình huống hoạt động thành công – Chú trọng vào kết quả |
Sự lãnh đạo
– Hỗ trợ liên tục – Kỹ năng lãnh đạo – Điều hành mang tính hợp tác |
Chú trọng vào người dùng
– Quan điểm toàn diện về khách hàng là người dân và doanh nghiệp của đô thị – Việc thực hiện lấy người dân làm trung tâm – Trao quyền cho những bên liên quan |
Cam kết hợp tác
– Nhận thức và sự tham gia của các bên quan tâm – Quan hệ đối tác giữa các lĩnh vực – Huy động sự tham gia của các đô thị khác |
Kỹ năng
– Tạo kỹ năng – Tích hợp kỹ năng |
Quan hệ đối tác với nhà cung cấp
– Lựa chọn nhà cung cấp thông minh – Phối hợp các nhà cung cấp |
Thực hiện thành công
– Thực hiện theo giai đoạn – Cải tiến liên tục – Quản lý rủi ro |
Kiểm chứng trong tương lai
– Khả năng liên thông – Triển khai qua web làm trung tâm – Tính linh hoạt và khả năng phục hồi – Các dịch vụ được chia sẻ – Hỗ trợ và duy trì |
Thực hiện các lợi ích
– Lập bản đồ lợi ích – Theo dõi lợi ích – Hiện thực hóa lợi ích |
8.3 Khuyến nghị
Các nhà lãnh đạo của đô thị thông minh cần thiết lập các quá trình để đảm bảo rằng các rủi ro chính đối với việc thực hiện thành công chiến lược của đô thị được xác định, đo lường và quản lý.
8.4 Sự liên kết
Việc giám sát các rủi ro chính là nhiệm vụ cốt lõi đối với sự lãnh đạo và điều hành [B2] của đô thị thông minh. Các cuộc kiểm tra thường xuyên từ bên ngoài về chương trình đối với những rủi ro chính cần được thiết lập trong lộ trình của đô thị thông minh [B7]. Chi tiết về những rủi ro chính được nêu trong Phụ lục B.
Phụ lục A
(tham khảo)
Các nguyên tắc thực hiện theo TCVN 37106
A.1 Giới thiệu
Điều 5.3 khuyến nghị rằng các nhà lãnh đạo của đô thị thông minh cần hợp tác với các bên quan tâm để phát triển và thống nhất bộ nguyên tắc thực hiện về chiến lược cho đô thị thông minh. Khuyến nghị rằng các nhà lãnh đạo của đô thị thông minh cần sử dụng các nguyên tắc nêu trong phụ lục này như đầu vào chính và điểm khởi đầu đối với quá trình này.
A.2 Tổng quan chung
Như vậy, một đô thị thông minh là đô thị:
- a) có tầm nhìn,
- b) lấy người dân làm trung tâm
- c) kỹ thuật số,
- d) mở và hợp tác.
Để hướng tới một đô thị thông minh, cần thực hiện những nguyên tắc dưới đây.
A.3 Đô thị có tầm nhìn
Để hướng tới tương lai bền vững, đô thị cần một tầm nhìn rõ ràng, thuyết phục và được tất cả các bên quan tâm chính cùng tham gia xây dựng. Điều này đòi hỏi:
- a) sự rõ ràng về các kết quả đối với xã hội, kinh tế và môi trường mà chúng ta muốn đạt được cho đô thị khi nỗ lực thực hiện các mục tiêu về phát triển bền vững và những thách thức có liên quan;
- b) một tầm nhìn được chia sẻ về cách thức mà chúng ta đầu tư và biến đổi các tài sản về kỹ thuật, không gian, kỹ thuật số và con người để đạt được các kết quả như mong muốn;
- c) tất cả các bên quan tâm đều sẽ được huy động tham gia vào việc phát triển và thực hiện tầm nhìn này;
- d) một cách tiếp cận chủ động đối với việc loại trừ kỹ thuật số, xét về mặt đào tạo, truy cập và giáo dục, và đối với việc xác định các kênh để những quan điểm và tiếng nói của các bên quan tâm được lắng nghe và được xem xét khi ra quyết định.
Cần có sự lãnh đạo trong việc thực hiện tầm nhìn ở tất cả các cấp. Điều này đòi hỏi:
- a) sự lãnh đạo và cam kết mạnh mẽ từ chính quyền địa phương;
- b) đội ngũ lãnh đạo được ủng hộ rộng rãi, dựa vào những điểm mạnh của tất cả các đối tác và cộng đồng của đô thị.
A.4 Đô thị lấy người dân làm trung tâm
Cần thấu hiểu các nhu cầu của người dân và doanh nghiệp. Điều này đòi hỏi:
- a) sự hiểu biết về các phân khúc khách hàng chính được chia sẻ trên toàn đô thị, dựa trên bằng chứng chứ không phải là những giả định;
- b) sự hiểu biết thực tế về các tương tác của người dân và doanh nghiệp với các hệ thống đô thị.
Cần tạo dựng các không gian và dịch vụ dựa trên nhu cầu của người dân. Điều này đòi hỏi:
- a) các nhu cầu của người dân và những thay đổi trong hoạt động về mặt tổ chức, văn hóa cần thiết để thực hiện những nhu cầu này đều được thấu hiểu trước khi đô thị cấp kinh phí đầu tư cho công nghệ và hạ tầng;
- b) dịch vụ một cửa cho người dân và doanh nghiệp tương tác với các dịch vụ công trong đô thị luôn có sẵn “mọi lúc, mọi nơi, bất kỳ kênh nào, bất kỳ thiết bị nào” và được tạo lập dựa trên nhu cầu của người dùng chứ không phải dựa trên cơ cấu tổ chức của đô thị;
- c) chinh phục từng phân khúc khách hàng ở cấp độ toàn đô thị cùng với kinh doanh nhượng quyền thương mại các quyền của khách hàng (các nhóm nhỏ, định hướng vào khách hàng nằm trong các cơ cấu tổ chức hiện có của đô thị và đóng vai trò là đại lý cho các phân khúc khách hàng).
Việc chuyển đổi được thực hiện có sự tham gia của và bởi người dân và doanh nghiệp. Điều này đòi hỏi:
- a) tất cả các bên quan tâm tham gia trực tiếp vào thiết kế và cung cấp dịch vụ của đô thị;
- b) người dân và doanh nghiệp được trao quyền về tự tạo ra giá trị công;
- c) việc chấp nhận đặc điểm chung về đồng thiết kế/đồng tạo lập các dịch vụ.
A.5 Đô thị kỹ thuật số
Tạo ra khả năng số hóa toàn cầu và được tích hợp của đô thị. Điều này đòi hỏi:
- a) sự kết nối và tích hợp kỹ thuật số giữa con người, địa điểm và vạn vật trên toàn đô thị;
- b) kỹ thuật số được mặc định đối với tất cả các dịch vụ của đô thị;
- c) phân tích về dữ liệu kỹ thuật số của đô thị để làm cho cung đáp ứng cầu tốt hơn, để cải thiện dịch vụ và tính bền vững, để dự báo và ngăn ngừa tốt hơn các vấn đề sẽ nảy sinh trong tương lai.
Đảm bảo việc áp dụng số hóa trong đô thị, có nghĩa là:
- a) không có nhóm liên quan nào bị bỏ lại đằng sau;
- b) xác định những lợi ích trong tương lai để có kế hoạch hỗ trợ kinh phí cho việc cung cấp kỹ thuật số một cách phù hợp cho người dân và doanh nghiệp, đồng thời đầu tư cho việc áp dụng kỹ thuật số ngay từ bây giờ.
A.6 Đô thị mở và hợp tác
Cần tạo ra các không gian và cơ hội cho những quan hệ hợp tác mới. Điều này đòi hỏi:
- a) các không gian hạ tầng kỹ thuật và kỹ thuật số nơi các đổi mới của đô thị có thể cùng nhau vượt qua ranh giới về lĩnh vực và tổ chức;
- b) tạo lập các cơ hội cho mọi người kết nối, tương tác và giao dịch, cả theo thiết kế và sự ngẫu nhiên;
- c) các hình thức hợp tác mới, kết nối mạng mới, mô hình hoạt động mới;
- d) truy cập mở cho người dân và các nhóm cộng đồng để khai thác quyền sở hữu trí tuệ kỹ thuật số được hỗ trợ kinh phí một cách công khai (IPR) cho lợi ích chung rộng hơn.
Cần công khai dữ liệu của đô thị để thúc đẩy sự đổi mới, sáng tạo và tạo ra giá trị mới. Điều này đòi hỏi:
- a) tất cả các dữ liệu cá nhân được lưu giữ an toàn, đồng thời thuộc quyền sở hữu và kiểm soát của cá nhân;
- b) tất cả các dữ liệu công không nhận dạng cá nhân được công khai để tái sử dụng và đổi mới bởi bên thứ ba;
- c) công khai dữ liệu được thiết kế cho tất cả các vụ việc mua sắm của đô thị;
- d) các cam kết của các đối tác tại khu vực tư nhân và tình nguyện để công khai dữ liệu không nhạy cảm về mặt thương mại hoặc cá nhân;
- e) các tiêu chuẩn, siêu dữ liệu, công cụ, sự khuyến khích và mô hình hoạt động để tạo thuận lợi cho một thị trường phát triển mạnh mẽ có sử dụng dữ liệu của đô thị bởi tất cả các bên quan tâm.
Cần tạo lập các hệ thống linh hoạt và thích nghi của đô thị. Điều này đòi hỏi:
- a) tinh nhanh nhạy và cải tiến liên tục, chứ không chỉ “làm đúng ngay từ lần đầu”;
- b) khả năng phục hồi trước các lỗi vô tình và cố ý;
- c) sự thay đổi theo từng giai đoạn chứ không phải là “thay đổi đột ngột”.
Cần chia sẻ và tái sử dụng các tài sản và dịch vụ của đô thị. Điều này đòi hỏi:
- a) việc chia sẻ toàn đô thị các tập dữ liệu phổ biến về người dân và doanh nghiệp, các ứng dụng và giao diện ứng dụng phổ biến, các quy trình phân phối và hạ tầng công nghệ thông tin cốt lõi phổ biến;
- b) sử dụng các nguyên tắc kiến trúc hướng vào dịch vụ (SOA) để liên kết công nghệ và dịch vụ, đồng thời giảm sự trùng lặp về hạ tầng;
- c) khả năng liên thông được thúc đẩy bởi các tiêu chuẩn mở.
Phụ lục B
(tham khảo)
Danh sách kiểm tra việc giảm thiểu các rủi ro chính
Phụ lục này đưa ra danh sách kiểm tra để làm rõ hơn các rủi ro chính được đề cập trong Điều 8 (Hợp phần D).
1) Rõ ràng về mặt chiến lược | |
a) Tầm nhìn rõ ràng
– Tầm nhìn được hợp tác xây dựng. – Tất cả các bên quan tâm đều có hiểu biết chung và rõ ràng về những gì mà chương trình đô thị thông minh mong muốn đạt được. – Tầm nhìn này được củng cố bởi các nguyên tắc thực hiện về cách thức làm việc cùng nhau để thực hiện tầm nhìn trong thực tiễn. |
ü ü ü |
b) Tình huống hoạt động thành công
– Biết rõ các kết quả muốn đạt được, đồng thời thiết lập các thước đo sự thành công rõ ràng và dựa trên bằng chứng. – Có đường cơ sở rõ ràng và định lượng được về các chi phí và hiệu quả hoạt động của các hệ thống thực hiện dịch vụ hiện tại trên toàn đô thị làm căn cứ để có thể so sánh sự tác động của chương trình đô thị thông minh. |
ü ü |
c) Chú trọng đến kết quả
– Tập trung vào việc thực hiện các bước thực hành ngắn hạn và trung hạn. – Chương trình mang lại những lợi ích đáng kể cho các bên quan tâm (cả người dân và doanh nghiệp) hiện nay. – Cung cấp kinh phí cho công nghệ trước sau khi xác định những thay đổi quan trọng về tổ chức và hoạt động cần thiết để thực hiện tầm nhìn. |
ü ü ü |
2) Sự lãnh đạo | |
a) Hỗ trợ liên tục
– Các nhà lãnh đạo và quản lý cấp cao của tất cả các bên quan tâm đều cam kết với chương trình đô thị thông minh trong dài hạn. |
ü |
b) Kỹ năng lãnh đạo
– Đội ngũ lãnh đạo có các kỹ năng cần thiết để định hướng cho sự chuyển đổi hoạt động thúc đẩy công nghệ thông tin và truyền thông trên toàn đô thị. – Đội ngũ lãnh đạo có thể tiếp cận với sự hỗ trợ từ bên ngoài, bao gồm cả sự tham gia với các nhà lãnh đạo về sáng kiến đô thị thông minh ở nơi khác. |
ü ü |
c) Điều hành mang tính hợp tác
– Các lãnh đạo từ chính quyền địa phương và tất cả các đối tác từ các đô thị lớn được khuyến khích đạt được thành công chương trình đô thị thông minh và tham gia vào các cơ chế điều hành rõ ràng, mang tính hợp tác nhằm quản lý các rủi ro và vấn đề chính. – Có trách nhiệm giải trình rõ ràng về việc đối tác nào có vai trò chủ đạo đối với từng khía cạnh của việc thực hiện lộ trình về đô thị thông minh. |
ü ü |
3) Chú trọng vào người dùng | |
a) Quan điểm toàn diện về người dân và khách hàng của đô thị
– Có một cái nhìn toàn diện về các dịch vụ đô thị cho khách hàng và hiểu nhu cầu của họ trên cơ sở phân khúc nhu cầu này. – Sự thấu hiểu về khách hàng được làm rõ thông qua cả dữ liệu nghiên cứu và việc phân tích dữ liệu của đô thị. – Sự thấu hiểu về khách hàng được tổng hợp trên toàn đô thị chứ không phải được quản lý trong các cấu trúc theo chức năng riêng biệt của đô thị. |
ü ü ü |
b) Việc thực hiện lấy khách hàng làm trung tâm
– Người dân và doanh nghiệp có thể tiếp cận tất cả các dịch vụ công của đô thị thông qua dịch vụ một cửa. – Tính năng này sẵn có trên nhiều kênh, nhưng cần sử dụng các dịch vụ dựa trên nền tảng web để kết hợp tất cả dịch vụ lại, khách hàng có thể truy cập vào một nơi xem được tất cả và giảm trùng lặp về hạ tầng. – Khuyến khích triển khai các dịch vụ thông qua các kênh kỹ thuật số và giúp những người hiện không dùng kỹ thuật số cũng được hưởng quyền lợi từ những dịch vụ này về sau. |
ü ü ü |
c) Trao quyền cho cộng đồng
– Huy động sự tham gia trực tiếp của khách hàng vào việc thiết kế và thực hiện dịch vụ. – Cung cấp cho tất cả các bên quan tâm quyền truy cập vào dữ liệu của đô thị và hỗ trợ để sử dụng nó tạo ra giá trị thương mại và công mới. |
ü ü |
4) Cam kết hợp tác | |
a) Nhận thức và sự tham gia của các bên quan tâm
– Tất cả các bên quan tâm (như người dùng, nhà cung cấp, đối tác thực hiện cả ở khu vực công, tư và tình nguyện, chính trị gia, truyền thông) đều hiểu rõ về chương trình đô thị thông minh, về việc họ tham gia như thế nào vào chương trình này và chương trình mang lại lợi ích gì cho họ. |
ü |
b) Quan hệ đối tác giữa các lĩnh vực
– Chương trình đô thị thông minh huy động có hiệu quả sự tham gia của các bên quan tâm trong các khu vực công, tư và tình nguyện. – Chương trình đô thị thông minh mang lại lợi ích rõ ràng cho tất cả các nhóm bên quan tâm chính. |
ü |
ü | |
c) Huy động sự tham gia của các đô thị khác
– Chương trình đô thị thông minh huy động một cách có hệ thống sự tham gia của các đô thị khác để học hỏi và chia sẻ kinh nghiệm lẫn nhau. |
ü |
5) Kỹ năng | |
a) Lập bản đồ về kỹ năng
– Lập bản đồ về kỹ năng cần thiết nhằm thực hiện chương trình đô thị thông minh và thiết lập các kế hoạch rõ ràng để duy trì chúng. |
ü |
b) Tích hợp kỹ năng
– Có các cơ chế hiệu quả để tối đa hóa giá trị từ tất cả các kỹ năng hiện có của các đối tác tham gia thực hiện lộ trình về đô thị thông minh. |
ü |
6) Quan hệ đối tác giữa các nhà cung cấp | |
a) Lựa chọn nhà cung cấp thông minh
– Chính sách mua sắm và ký kết hợp đồng của đô thị phù hợp với các nguyên tắc mua sắm của đô thị thông minh (tập trung vào kết quả, dữ liệu mở, các biện pháp khích lệ, động viên sự đổi mới và hợp tác, tránh khép kín) – Đô thị lựa chọn nhà cung cấp dựa trên giá trị lâu dài chứ không phải là giá cả, và đặc biệt dựa trên mức độ tin cậy mà các nhà cung cấp được lựa chọn sẽ đảm bảo việc hiện thực các lợi ích hoạt động như mong muốn. |
ü ü |
b) Phối hợp các nhà cung cấp
– Quản lý mối quan hệ với các nhà cung cấp chiến lược ở mức cao nhất cho cả hai bên và trên cơ sở hai bên cùng có lợi |
ü |
7) Kiểm chứng trong tương lai | |
a) Khả năng liên thông
– Bất cứ nơi nào có thể, sử dụng các tiêu chuẩn mở và có khả năng tương thích tốt trên thị trường. |
ü |
b) Triển khai qua web làm trung tâm
– Sử dụng các nguyên tắc kiến trúc hướng vào dịch vụ (SOA) để hỗ trợ tất cả các tương tác của khách hàng, từ các tương tác trực tiếp với nhân viên trực tuyến đến các tương tác khách hàng hoàn toàn trực tuyến với dịch vụ. |
ü |
c) Tính linh hoạt và khả năng phục hồi
– Triển khai công nghệ sử dụng các tòa nhà chung có thể được tái sử dụng để đảm bảo tính linh hoạt, khả năng phục hồi và khả năng thích ứng. |
ü |
d) Các dịch vụ được chia sẻ
– Quản lý các tòa nhà chính như các tài nguyên trên toàn đô thị (đặc biệt là các bộ dữ liệu khách hàng phổ biến; các ứng dụng và các giao diện ứng dụng phổ biến; và hạ tầng công nghệ thông tin và truyền thông cốt lõi). |
ü |
e) Hỗ trợ và bảo trì
– Có sẵn các thỏa thuận về hỗ trợ và bảo trì tài sản được phát triển và/hoặc được quản lý bởi các bên quan tâm đã rời khỏi chương trình đô thị thông minh vì bất kỳ lý do gì. – Có sẵn một quy trình thay thế các bên quan tâm khi các bên quan tâm muốn rời khỏi hệ sinh thái của đô thị thông minh hoặc đã rút khỏi chương trình này. |
ü ü |
8) Thực hiện thành công | |
a) Thực hiện theo giai đoạn
– Tránh cách tiếp cận “đột ngột” đối với việc triển khai, phụ thuộc vào mức độ thay đổi đồng thời đáng kể về công nghệ và tổ chức. |
ü |
b) Cải tiến liên tục
– Không kỳ vọng đạt được mọi thứ ngay từ lần đầu, nhưng cần có các hệ thống cho phép hiểu được vị trí hiện tại, lập kế hoạch, phát triển nhanh và học hỏi kinh nghiệm. |
ü |
c) Quản lý rủi ro
– Hiểu rõ các hệ quả của việc chuyển đổi và các cơ chế để đánh giá rủi ro và xử lý theo dõi, phục hồi và hoạt động trở lại. – Lợi ích cho chương trình đô thị thông minh từ việc kiểm tra thường xuyên của bên ngoài. |
ü ü |
Thư mục tài liệu tham khảo
[1] OASIS. TGFPLCorev1.0 Transformational Government Framework (TGF) Pattern Language Core Patterns Version 1.0. 25 April 2013. OASIS Standard. http://docs.oasisopen.org/tgf/TGFPL-Core/v1.0/os/TGFPLCorev1.0os.html
[2] TECHNOLOGY STRATEGY BOARD. Solutions for cities: An analysis of the feasibility studies from the Future Cities Demonstrator Programme. Prepared for the Technology Strategy Board by Arup Limited. Swindon: TSB, July 2013
[3] TCVN 11485 (ISO Guide 82), Hướng dẫn đề cập đến tính bền vững trong tiêu chuẩn
[4] ISO/IEC 18384-2, Information technology – Reference Architecture for Service Oriented Architecture (SOA RA) – Part 2: Reference Architecture for SOA Solutions
[6] TCVN 37101:2018, Phát triển bền vững cho cộng đồng – Hệ thống quản lý về phát triển bền vững – Các yêu cầu và hướng dẫn sử dụng
[7] TCVN 37120, Phát triển bền vững cho cộng đồng – Các chỉ số về dịch vụ và chất lượng sống đô thị
[8] TCVN 37151, Hạ tầng thông minh cho cộng đồng – Nguyên tắc và yêu cầu đối với chuẩn đo kết quả hoạt động
[9] TCVN 37152, Hạ tầng thông minh cho cộng đồng – Khuôn khổ chung về phát triển và vận hành
[10] ISO/IEC 30182, Smart city concept model – Guidance for establishing a model for data interoperability
MỤC LỤC
Lời nói đầu
Lời giới thiệu
1 Phạm vi áp dụng
2 Tài liệu viện dẫn
3 Thuật ngữ và định nghĩa
4 Tổng quan
4.1 Chuyển đổi mô hình hoạt động truyền thống cho các đô thị
4.2 Cấu trúc của tiêu chuẩn này
4.3 Tóm tắt về các khuyến nghị
5 Cấu phần A – Các nguyên tắc thực hiện
5.1 Bối cảnh
5.2 Nhu cầu
5.3 Các khuyến nghị
5.4 Sự liên kết
6 Cấu phần B – Các quá trình thực hiện chính trên toàn đô thị
6.1 Khái quát
6.2 Quản lý chiến lược
6.3 Cấu phần [B1] – Tầm nhìn của đô thị
6.3.1 Bối cảnh
6.3.2 Nhu cầu
6.3.3 Các khuyến nghị
6.3.4 Sự liên kết
6.4 Cấu phần [B2] – Sự lãnh đạo và điều hành
6.4.1 Bối cảnh
6.4.2 Nhu cầu
6.4.3 Các khuyến nghị
6.4.4 Sự liên kết
6.5 Cấu phần [B3] – Sự cam kết hợp tác
6.5.1 Bối cảnh
6.5.2 Nhu cầu
6.5.3 Các khuyến nghị
6.5.4 Sự liên kết
6.6 Cấu phần [B4] – Quản lý việc mua sắm và nhà cung cấp
6.6.1 Bối cảnh
6.6.2 Nhu cầu
6.6.3 Các khuyến nghị
6.6.4 Sự liên kết
6.7 Cấu phần [B5] – Lập bản đồ các nhu cầu về khả năng liên thông của đô thị
6.7.1 Bối cảnh
6.7.2 Nhu cầu
6.7.3 Các khuyến nghị
6.7.4 Sự liên kết
6.8 Cấu phần [B6] – Thiết lập thuật ngữ và mô hình tham chiếu chung
6.8.1 Bối cảnh
6.8.2 Nhu cầu
6.8.3 Các khuyến nghị
6.8.4 Sự liên kết
6.9 Cấu phần [B7] – Lộ trình của đô thị thông minh
6.9.1 Bối cảnh
6.9.2 Nhu cầu
6.9.3 Các khuyến nghị
6.9.4 Sự liên kết
6.10 Quản lý dịch vụ lấy người dân làm trung tâm
6.11 Cấu phần [B8] – Trao quyền cho cộng đồng đô thị thông qua dữ liệu của đô thị
6.11.1 Bối cảnh
6.11.2 Nhu cầu
6.11.3 Các khuyến nghị
6.11.4 Sự liên kết
6.12 Cấu phần [B9] – Thực hiện các dịch vụ tích hợp lấy người dân làm trung tâm
6.12.1 Bối cảnh
6.12.2 Nhu cầu
6.12.3 Các khuyến nghị
6.12.4 Sự liên kết
6.13 Cấu phần [B10] – Quản lý danh tính và quyền riêng tư
6.13.1 Bối cảnh
6.13.2 Nhu cầu
6.13.3 Các khuyến nghị
6.13.4 Sự liên kết
6.14 Cấu phần [B11] – Chiến lược áp dụng kỹ thuật số và quản lý kênh
6.14.1 Bối cảnh
6.14.2 Nhu cầu
6.14.3 Khuyến nghị
6.14.4 Sự liên kết
6.15 Quản lý tài nguyên kỹ thuật số và kỹ thuật
6.16 Cấu phần [B12] – Quản lý các phát triển và hạ tầng của đô thị thông minh
6.16.1 Bối cảnh
6.16.2 Nhu cầu
6.16.3 Khuyến nghị
6.16.4 Sự liên kết
6.17 Cấu phần [B13] – Lập bản đồ và quản lý tài nguyên về công nghệ thông tin và dữ liệu
6.17.1 Bối cảnh
6.17.2 Nhu cầu
6.17.3 Khuyến nghị
6.17.4 Sự liên kết
6.18 Cấu phần [B14] – Kiến trúc công nghệ thông tin mở, định hướng vào dịch vụ trên toàn đô thị
6.18.1 Bối cảnh
6.18.2 Nhu cầu
6.18.3 Khuyến nghị
6.18.4 Sự liên kết
7 Cấu phần C: Khung cho việc hiện thực hóa lợi ích
7.1 Bối cảnh
7.2 Nhu cầu
7.3 Khuyến nghị
7.4 Sự liên kết
8 Cấu phần D – Các rủi ro chính
8.1 Bối cảnh
8.2 Nhu cầu
8.3 Khuyến nghị
8.4 Sự liên kết
Phụ lục A (tham khảo) – Các nguyên tắc thực hiện theo TCVN 37106
Phụ lục B (tham khảo) – Danh sách kiểm tra việc giảm thiểu các rủi ro chính
Thư mục tài liệu tham khảo
TIÊU CHUẨN QUỐC GIA TCVN ISO 37106:2018 (ISO 37106:2018) VỀ ĐÔ THỊ VÀ CỘNG ĐỒNG BỀN VỮNG – HƯỚNG DẪN THIẾT LẬP MÔ HÌNH HOẠT ĐỘNG CỦA ĐÔ THỊ THÔNG MINH CHO CỘNG ĐỒNG BỀN VỮNG | |||
Số, ký hiệu văn bản | TCVNISO37106:2018 | Ngày hiệu lực | |
Loại văn bản | Tiêu chuẩn Việt Nam | Ngày đăng công báo | |
Lĩnh vực |
Lĩnh vực khác |
Ngày ban hành | 01/01/2018 |
Cơ quan ban hành | Tình trạng | Còn hiệu lực |
Các văn bản liên kết
Văn bản được hướng dẫn | Văn bản hướng dẫn | ||
Văn bản được hợp nhất | Văn bản hợp nhất | ||
Văn bản bị sửa đổi, bổ sung | Văn bản sửa đổi, bổ sung | ||
Văn bản bị đính chính | Văn bản đính chính | ||
Văn bản bị thay thế | Văn bản thay thế | ||
Văn bản được dẫn chiếu | Văn bản căn cứ |